pháp lý của người tham gia tố tụng như bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng...Địa vị pháp lý cũng thay đổi tùy theo giai đoạn tố tụng.
Các quyền tố tụng được quy định như quyền được biết bị khởi tố, truy tố về tội gì, quyền tham gia phiên tòa, quyền bào chữa hoặc bảo vệ quyền lợi, quyền đưa ra chứng cứ, các yêu cầu, quyền tranh luận tại phiên tòa...là những bảo đảm quan trọng để người tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong vụ án hình sự.
Đối với người tiến hành tố tụng, BLTTHS 1988 quy định những trường hợp từ chối hoặc phải bị thay đổi để đảm bảo cho họ thực hiện nhiệm vụ tố tụng một cách vô tư, khách quan. Tuy nhiên, từ góc độ bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân và mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước thông qua cơ quan, người tiến hành tố tụng thì BLTTHS 1988 còn có hạn chế lớn là chưa quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng.
Thứ ba, BLTTHS 1988 quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng nhằm bảo đảm QCN.
Là một văn bản luật hình thức, BLTTHS 1988 quy định tương đối cụ thể các trình tự, thủ tục tố tụng nhằm bảo đảm giải quyết vụ án hình sự chính xác, khách quan, toàn diện trên cơ sở tôn trọng và bảo vệ các QCN như quy định rò ràng, chặt chẽ thẩm quyền tố tụng cụ thể cho các cơ quan và người tiến hành tố tụng, đặc biệt là thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng nói chung và biện pháp ngăn chặn nói riêng; quy định căn cứ và thời hạn áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng; quy định các thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng và các thủ tục tố tụng có liên quan đến quyền tự do, dân chủ công dân như thủ tục bắt người, thủ tục khám xét, thu giữ, thủ tục xét hỏi, lấy lời khai, hỏi cung, thủ tục phiên tòa v.v...
Nhìn chung, các quy định của BLTTHS 1988 về thẩm quyền tố tụng, về trình tự, thủ tục tố tụng là phù hợp với khả năng thực tế của cơ quan, người tiến
hành tố tụng và yêu cầu của việc bảo đảm QCN. Tinh thần chung của BLTTHS 1988 thể hiện quan điểm bảo đảm QCN của Nhà nước ta là biện pháp tố tụng càng nghiêm khắc, càng ảnh hưởng đến QCN thì thẩm quyền càng hẹp, trình tự, thủ tục càng chặt chẽ. Ví dụ: đối với biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất ảnh hưởng rất lớn đến quyền tự do thân thể của công dân là tạm giam, BLTTHS 1988 quy định rất chặt chẽ căn cứ (Điều 70); quy định chỉ có Thủ trưởng CQĐT, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, HĐXX mới có thẩm quyền ra lệnh bắt tạm giam; quy định thủ tục chặt chẽ về việc bắt tạm giam (không bắt vào ban đêm, bắt người phải có lệnh viết, có đại diện chính quyền, cơ quan và người chứng kiến) (Điều 62); quy định thời hạn tạm giam và gia hạn tạm giam trong các giai đoạn tố tụng rất cụ thể và chặt chẽ v.v...
Thứ tư, BLTTHS 1988 quy định các chế tài tố tụng đối với vi phạm QCN. Đồng thời với việc quy định các trình tự, thủ tục tố tụng, BLTTHS
1988 cũng quy định các chế tài tố tụng đối với các vi phạm thủ tục tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng, bảo đảm cho các trình tự, thủ tục tố tụng được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất, khách quan, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Theo quy định của Điều 141 BLTTHS 1988, thì khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, VKS có nhiệm vụ bảo đảm để không một người nào bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các QCN, bị xâm phạm tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm một cách trái pháp luật. Để thực hiện nhiệm vụ đó, VKS có quyền phê chuẩn hay không phê chuẩn các quyết định tạm giam, tạm giữ của CQĐT, hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT, yêu cầu cung cấp tài liệu về việc làm trái pháp luật của Điều tra viên, yêu cầu thay đổi Điều tra viên...
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Niệm Quyền Con Người Và Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Tố Tụng Hình Sự Đối Với Người Bị Tạm Giữ, Tạm Giam
- Quy Định Về Vấn Đề Bảo Đảm Quyền Con Người Đối Với Người Bị Tạm Giữ, Tạm Giam Trong Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Một Số Nước
- Các Quy Định Về Bảo Đảm Quyền Con Người Đối Với Người Bị Tạm Giữ, Tạm Giam Trong Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam Từ Sau Cách Mạng Tháng 8
- Quy Định Bảo Đảm Quyền Không Bị Tra Tấn, Đối Xử Hoặc Trừng Phạt Tàn Bạo, Vô Nhân Đạo Hoặc Hạ Nhục
- Thực Tiễn Việc Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Tố Tụng Hình Sự Đối Với Người Bị Tạm Giữ, Tạm Giam Trên Địa Bàn Thành Phố Hà Nội
- Những Kết Quả Đạt Được Trong Việc Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Tố Tụng Hình Sự Đối Với Người Bị Tạm Giữ, Tạm Giam Trên Địa Bàn Thành
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
Bộ luật tố tụng hình sự 1988 quy định vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong quá trình tiến hành tố tụng như không bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo theo quy định của pháp luật, bức cung, dùng nhục hình trong quá trình điều tra... là một trong những căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ
sung (Điều 142, Điều 154). Các vi phạm pháp luật khác xâm phạm đến quyền tự do, dân chủ của công dân có thể bị khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền để xem xét trách nhiệm áp dụng các biện pháp tố tụng như thay đổi người tiến hành tố tụng. Ngoài chế tài tố tụng, người tiến hành tố tụng có hành vi xâm phạm QCN trong hoạt động tố tụng còn có thể bị xử lý kỷ luật, bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Tóm lại, so với các văn bản pháp luật TTHS trước đây, BLTTHS 1988 đã có một bước phát triển lớn liên quan đến việc tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của công dân. Các chế định khác nhau của BLTTHS 1988 đều thể hiện rò nguyên tắc tôn trọng và bảo đảm QCN trong TTHS. Tuy nhiên, qua hơn 15 năm thực hiện và trước yêu cầu của việc đổi mới tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta hiện nay, nhiều quy định của BLTTHS 1988 đã tỏ ra bất cập: BLTTHS chưa quy định rò ràng, cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của những người tiến hành tố tụng; địa vị tố tụng của những người tham gia tố tụng vẫn chưa thật đầy đủ, nhất là quyền tố tụng của công dân; khiếu nại, tố cáo trong TTHS chưa được quy định một cách đầy đủ, rò ràng; các thủ tục tố tụng chưa thể hiện đầy đủ cơ chế tố tụng và bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân, quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật v.v... [47, tr. 59-60].
Chương 2
CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ
TẠM GIAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON nGƯỜI ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM
2.1.1. Quy định bảo đảm quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện
Tạm giữ, tạm giam là những biện pháp ngăn chặn động chạm trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 ghi nhận và bảo đảm thực hiện:
1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định [44, Điều 20, Khoản 1, Khoản 2].
Tạm giữ, tạm giam không chỉ liên quan đến đường lối, chính sách của Đảng, đến pháp luật của nhà nước. Việc bắt, tạm giữ, tạm giam một số "đối tượng đặc biệt" ở trong nước và các đối tượng là người nước ngoài còn ảnh hưởng đến chính sách đối nội và quan hệ đối ngoại của Nhà nước ta. BLTTHS 2003 đã cụ thể hóa chế định này nhằm đảm bảo tốt hơn nữa QCN của người bị tạm giữ, tạm giam.
Theo quy định tại Điều 86 BLTTHS 2003 thì những người có quyền ra quyết định tạm giữ: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các cấp; Người chỉ
huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng và chỉ huy vùng cảnh sát biển. Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, người thi hành quyết định tạm giữ phải giải thích để người bị tạm giữ biết lý do mình bị tạm giữ; được giải thích về quyền và nghĩa vụ; trình bày lời khai; tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; khiếu nại về việc tạm giữ, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng [42, Điều 58]. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho VKS cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Quyết định tạm giữ ghi rò lý do tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và giao cho người bị tạm giữ một bản.
Thời hạn tạm giữ được BLTTHS quy định ở mức độ cần thiết nhất, đó là không quá ba ngày kể từ khi CQĐT nhận người bị bắt. Trong trường hợp cần thiết người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được VKS cùng cấp phê chuẩn. Như vậy, nếu có gia hạn thì tạm giữ tối đa không quá 9 ngày; trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, VKS cùng cấp phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Trong khi tạm giữ nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ. Thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ bằng một ngày tạm giam.
Đối với người bị bắt để tạm giam, Điều 88 BLTTHS 2003 quy định căn cứ để bắt bị can, bị cáo để tạm giam: 1) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng; 2) Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt từ hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội [42, Điều 88, Khoản 1]. Tuy nhiên không phải trong mọi trường hợp, khi có căn cứ nêu trên thì bị can, bị cáo đều bị bắt để tạm giam mà BLTTHS quy định cơ quan có thẩm quyền có thể bắt chứ không bắt buộc phải bắt để tạm giam.
Trường hợp người chưa thành niên phạm tội bị tạm giam thì ngoài việc áp dụng các quy định của BLTTHS 2003 việc tạm giam còn được áp dụng thêm các nội dung được quy định tại chương XXXII phần thứ bảy về thủ tục đặc biệt của TTHS. Theo các quy định này thì việc bắt tạm giữ, tạm giam bị can, bị cáo là người chưa thành niên chỉ được áp dụng trong điều kiện thật cần thiết, có nghĩa là ngoài quy định tại Điều 80, 81, 82, 86, 120 của BLTTHS 2003 còn phải có thêm các điều kiện khác như là phải phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi [42, Điều 303, Khoản 1, Khoản 2].
Để bảo đảm việc bắt có căn cứ pháp luật và bắt người cần bắt, BLTTHS quy định những người sau đây có quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam: Viện trưởng, Phó viện trưởng VKS và VKSQS các cấp; chánh án, phó chánh án TAND và Tòa án quân sự các cấp; thẩm phán giữ chức vụ Chánh Tòa, Phó chánh Tòa phúc thẩm TANDTC; HĐXX; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các cấp. Trong trường hợp này lệnh bắt phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Khi bị bắt, bị can, bị cáo có quyền yêu cầu người thi hành lệnh bắt đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và lập biên bản về việc bắt. Trong lệnh phải ghi rò ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người
ra lệnh, họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lí do bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng dấu. Nếu lệnh bắt không có chữ kí của người có thẩm quyền hay không có sự phê chuẩn của VKS thì người bị bắt không có nghĩa vụ phải chấp hành. Trong trường hợp bị can, bị cáo bị bắt tại nơi cư trú phải có đại diện của chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Nếu bị can, bị cáo bị bắt tại nơi làm việc thì phải có đại diện cơ quan, tổ chức người đó làm việc chứng kiến. Nếu bị can, bị cáo bị bắt ở nơi khác thì phải có đại diện chính quyền nơi tiến hành bắt chứng kiến. Không được bắt bị can, bị cáo vào ban đêm trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã.
Thời hạn của biện pháp tạm giam là khoảng thời gian mà cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng tước quyền tự do thân thể cá nhân, cũng như tước một số quyền công dân đối với các đối tượng được quy định tại Điều 88 BLTTHS 2003. Do tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, tước quyền tự do thân thể của cá nhân cũng như một số quyền công dân trong khoảng thời gian tương đối dài nên thời hạn tạm giam phải được quy định chặt chẽ, đầy đủ ở mức tối thiểu nhưng bảo đảm cho toàn bộ hoạt động tố tụng. Không để có trường hợp một thời gian nào đó trong toàn bộ quá trình tố tụng lại thiếu biện pháp tạm giam, nhưng đồng thời không nên để xảy ra tùy tiện trong áp dụng biện pháp này. Thời hạn tạm giam để điều tra được quy định tại Điều 120 BLTTHS 2003: Đối với tội ít nghiêm trọng là không quá 02 tháng và được gia hạn 01 lần không quá 01 tháng, như vậy chỉ được tạm giam 03 tháng. Đối với tội nghiêm trọng là không quá 03 tháng, gia hạn lần thứ nhất không quá 02 tháng, lần thứ hai không quá 01 tháng, như vậy tối đa không quá 06 tháng. Đối với tội rất nghiêm trọng là không quá 04 tháng, gia hạn lần thứ nhất không quá 03 tháng, lần thứ hai không quá 02 tháng, như vậy tối đa không quá 09 tháng. Đối với tội đặc biệt nghiêm trọng là không quá 04 tháng, gia hạn lần thứ nhất không quá 04 tháng, lần thứ hai không quá 04 tháng, lần thứ
hai không quá 04 tháng, lần thứ ba 04 tháng, như vậy tối đa không quá 16 tháng. Khi đã hết thời hạn tạm giam mà không có gia hạn tạm giam theo quy định của pháp luật thì người ra lệnh tạm giam phải trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét cần áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện là cốt lòi của tự do và an toàn cá nhân. Nếu quyền tự do và an toàn cá nhân của con người không được đảm bảo một cách hiệu quả thì việc bảo vệ các quyền cá nhân khác sẽ dễ bị tổn thương và không thực tế. Khi nhân quyền này bị vi phạm thì sẽ kéo theo một số hệ quả là các nhân quyền khác cũng có nguy cơ bị ảnh hưởng theo như quyền không phân biệt đối xử và đối xử công bằng; quyền tự do đi lại, cư trú; quyền đưuọc đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của người bị tước tự do …
Tuy vậy, trong TTHS, quyền này vẫn có nguy cơ bị vi phạm khi các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp ngăn chặn một cách tùy tiện, nhất là khi áp dụng biện pháp bắt người, tạm giữ, tạm giam để điều tra, truy tố và xét xử.
2.1.2. Quy định bảo đảm quyền không phân biệt đối xử và đối xử bình đẳng
Không phân biệt đối xử và đối xử bình đẳng được hiểu là sự thể hiện ở vị trí như nhau của mọi công dân trong mọi lĩnh vực của hoạt động nhà nước và xã hội mà không có sự ưu tiên, ưu đãi, phân biệt đối xử với bất cứ đối tượng nào.
Người nào phạm tội đều bị xử lý theo một trình tự, thủ tục tố tụng như nhau theo quy định của BLTTHS; người thực hiện hành vi phạm tội thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo các điều khoản tương ứng của BLHS, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Nghĩa là công dân ở địa vị pháp lý như nhau thì có quyền và nghĩa vụ tố tụng như nhau và cơ quan có thẩm quyền phải đảm bảo cho công dân thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng đó để bảo vệ quyền và lợi ích của mình.