Những Vướng Mắc Về Tạm Giam Trong Giai Đoạn Xét Xử

Luật cũng không giải thích trường hợp nào được coi là "trường hợp cần thiết" để Viện trưởng VKS gia hạn tạm giam.

VKS có quyền gia hạn tạm giam trong trường hợp này là VKS cùng cấp với cơ quan đã điều tra vụ án hình sự đó.

+ Về vấn đề: thời hạn Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh tạm giam

Tình trạng khá phổ biến hiện nay là các VKS thường chậm trễ trong việc phê chuẩn lệnh tạm giam. Cơ quan điều tra thì thường để đến ngày cuối cùng của thời hạn tạm giam hoặc của thời hạn tạm giam lần trước mới ra lệnh tạm giam (hoặc công văn đề nghị ra lệnh tạm giam) gửi VKS để đề nghị phê chuẩn lệnh tạm giam hoặc gia hạn tạm giam. Sự chậm trễ của cả hai cơ quan tiến hành tố tụng khiến cho tình trạng tạm giam quá hạn có cơ hội phát triển. Chính vì vậy, BLTTHS 2003 đã cố định thời hạn phê chuẩn của VKS là 3 ngày và quy định VKS phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc phê chuẩn.

Tuy nhiên, sau khi nhận được hồ sơ vụ án cùng kết luận điều tra, Kiểm sát viên phải kiểm tra về BPNC đối với bị can để đề xuất với Viện trưởng quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ BPNC này. Vậy, trường hợp đề xuất sai thì ai chịu trách nhiệm? Đây cũng là một vấn đề cần được nghiên cứu, tháo gỡ.

Luật TTHS là luật hình thức cho nên các quy định trong Bộ luật càng chi tiết bao nhiêu thì càng có lợi cho việc thực hiện chúng trong thực tiễn và tránh được các vi phạm pháp luật về phía người tiến hành tố tụng do căn bệnh tùy tiện gây ra. Vì thế với khuynh hướng phát triển dân chủ, tôn trọng các quyền của con người thì việc mở rộng khả năng kéo dài thời hạn tạm giam, kéo dài thời hạn gia hạn tạm giam là không phù hợp. Do đó, vấn đề này cần phải quy định cụ thể, chặt chẽ hơn.

2.3.1.3. Những vướng mắc về tạm giam trong giai đoạn xét xử

BLTTHS 2003 đã bổ sung thêm thẩm quyền của các thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao vào điểm c khoản 1 BLTTHS 2003.

Qua thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, có ý kiến cho rằng cùng với việc bổ sung thẩm quyền cho các Thẩm phán giữ các chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh toà phúc thẩm TANDTC, cũng nên mở rộng thêm thẩm quyền cho Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán trực tiếp thụ lý vụ án được quyền áp dụng BPTG. Bởi vì, hiện nay có tình trạng một người đề xuất, một người quyết định còn ai chịu trách nhiệm về việc tạm giam nếu có oan sai? Hơn nữa, việc giao cho người trực tiếp tiến hành tố tụng quyết định tạm giam thì hơn ai hết họ là người hiểu rõ vụ án, hiểu rõ sự cần thiết áp dụng BPNC và có như vậy thì mới nâng cao được trách nhiệm cá nhân của người áp dụng pháp luật.

Chúng tôi cho rằng, việc mở rộng thẩm quyền cho Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán trực tiếp thụ lý vụ án trong việc áp dụng BPTG là việc không nên làm, bởi nhiều lý do chủ quan và khách quan như: trình độ của một số Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đòi hỏi, tính khách quan của người trực tiếp điều tra, truy tố, xét xử có thể sẽ không bảo đảm v.v... Tuy nhiên, cũng cần phân định rõ ràng về trách nhiệm của người ra lệnh tạm giam, người phê chuẩn lệnh tạm giam và người đề xuất áp dụng lệnh tạm giam.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

+ Về việc tạm giam để xét xử

BLTTHS 2003 quy định: "Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 176 Bộ luật này" [18, Điều 177].

Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Kạn - 8

Theo quy định này, thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không quá 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm

trọng, 60 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 90 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Nếu như hết thời hạn trên mà vụ án chưa đưa ra xét xử thì Tòa án gia hạn tạm giam như gia hạn thời gian chuẩn bị xét xử "không quá 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng".

Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, Tòa án có thể ra lệnh tạm giam 45 ngày đối với tội ít nghiêm trọng, 60 ngày đối với tội nghiêm trọng, 90 ngày đối với tội rất nghiêm trọng và 120 ngày đối với tội đặc biệt nghiêm trọng, vì Tòa án có quyền kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng điều luật không quy định cho Tòa án được gia hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử. Nhưng theo chúng tôi, Điều 177 BLTTHS quy định thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 176 BLTTHS. Như vậy, đã bao gồm cả thời gian kéo dài của thời gian chuẩn bị xét xử, nếu vụ án kéo dài thời gian chuẩn bị xét xử thì mới có việc gia hạn tạm giam. Do đó, Tòa án chỉ ra lệnh tạm giam trong thời hạn là 30 ngày đối với tội ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội nghiêm trọng, 60 ngày đối với tội rất nghiêm trọng, 90 ngày đối với tội đặc biệt nghiêm trọng còn nếu vụ án phải kéo dài thời hạn xét xử thì Tòa án sẽ ra lệnh tạm giam thêm chứ không ra lệnh tạm giam ngay là 45 ngày, 60 ngày, 90 ngày và 120 ngày đối với từng loại tội.

+ Về việc tạm giam sau khi xét xử sơ thẩm

Đoạn 3 Điều 177 BLTTHS quy định: "Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Tòa án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa". Theo quy định này, thời hạn tạm giam kết thúc cùng với thời hạn kết thúc phiên tòa.

Trường hợp bị cáo bị phạt tù dài hơn thời hạn đã bị tạm giam thì việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên án sơ thẩm là để bảo đảm thi hành án. Điểm 5

phần III Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 12/1/1989 của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ đã hướng dẫn: "Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm phạt tù giam với thời hạn tù dài hơn thời hạn đã bị tạm giam thì Tòa án phải tuyên trong bản án sơ thẩm là tiếp tục tạm giam bị cáo đảm bảo cho việc thi hành án".

Việc bắt giam bị cáo ngay tại phiên tòa phải có lệnh tạm giam vì nếu chỉ tuyên trong phần quyết định của bản án thì không thể tiếp tục tạm giam bị cáo, do bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, chưa được đem ra thi hành, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 255 BLTTHS.

Nếu bị cáo không bị tạm giam nhưng bị phạt tù thì họ chỉ bị bắt giam để chấp hành hình phạt khi bản án đã có hiệu lực pháp luật.

Tòa án có thể quyết định bắt giam ngay bị cáo nếu có căn cứ cho thấy bị cáo tiếp tục bỏ trốn hoặc tiếp tục gây án.

Như vậy, Điều 228 BLTTHS quy định hai điều kiện cần thiết để bắt bị cáo ngay khi tuyên án:

- Thứ nhất: Bị cáo không bị tạm giam nhưng bị phạt tù.

- Thứ hai: Có căn cứ cho thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục gây án.

Còn đối với bị cáo bị phạt tử hình thì HĐXX quyết định trong bản án việc tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Đây là hai điều kiện bắt buộc phải xác định đồng thời thì mới bắt giam bị cáo. Trong thực tiễn xét xử, các Tòa án thường chỉ chú trọng đến điều kiện thứ nhất mà ít chú trọng đến điều kiện thứ hai. Hiện tượng này xuất phát từ tâm lý ngại bị cáo bỏ trốn, gây khó khăn cho việc xét xử tiếp theo hoặc gây khó khăn cho thi hành án. Có Tòa án khi xét xử đã quá nhấn mạnh các yếu tố khác để bắt giam bị cáo ngay khi tuyên án mặc dù bị cáo đã tại ngoại trong một thời gian rất dài mà không hề có một dấu hiệu nào cho thấy bị cáo "có thể bỏ trốn hoặc tiếp tục gây án" nên đã gây bất bình trong dư luận và sự không đồng tình của các cơ quan tiến hành tố tụng khác.

Mặt khác, trong trường hợp Tòa án bắt giam bị cáo sau khi tuyên án thì có HĐXX chỉ ra lệnh "bắt giam" sau khi tuyên án (việc tạm giam bị cáo không có lệnh riêng) còn thời hạn tạm giam bao lâu thì thuộc quyền của Tòa án cấp trên xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Nếu có kháng cáo, kháng nghị thì hết thời hạn này Tòa án cấp sơ thẩm chỉ làm động tác chuyển hồ sơ vụ án lên Tòa án cấp phúc thẩm và coi như hết trách nhiệm, còn việc thay đổi BPNC hay tiếp tục duy trì lệnh tạm giam do Tòa án cấp phúc thẩm quyết định (Điều 243 BLTTHS). Hoặc là HĐXX ra lệnh bắt khi tuyên án đồng thời ra lệnh "tạm giam" riêng nhưng trong lệnh tạm giam không quy định về thời hạn trong trường hợp này. Như vậy, có thể thấy rằng, quy định tại Điều 228 BLTTHS và hướng dẫn còn quá ngắn gọn nên trong thực tiễn xét xử vẫn còn trường hợp nhận thức và áp dụng và thiếu thống nhất, dẫn đến hiện tượng vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo.

Tại Điều 6 phần III Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 12/1/1989 của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ có hướng dẫn như sau:

Tại phiên tòa Hội đồng xét xử có thể bắt giam ngay bị cáo để bảo đảm cho việc thi hành án, nếu có đủ căn cứ cho thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục gây án, quyết định này phải được Hội đồng xét xử thảo luận, thông qua tại phần nghị án và được nêu rõ trong phần nhận định cũng như phần quyết định của bản án.

Ở đây, HĐXX thảo luận và quyết định việc bắt giam ngay bị cáo chứ không phải thảo luận việc quyết định áp dụng BPTG mà Chánh án đã ký. Và đã là quyết định của HĐXX đưa ra và thảo luận thông qua tại phòng nghị án khi phiên tòa sơ thẩm chưa kết thúc thì chắc chắn phải do một thành viên thay mặt HĐXX ký, có như vậy mới không trái với nguyên tắc "thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật".

Qua nghiên cứu trên, có thể rút ra kết luận: Bắt giam bị cáo sau khi xét xử có thể hiểu là BPTG (Điều 228 BLTTHS) hoặc là tiếp tục áp dụng chế độ tạm giam đối với bị cáo đang bị tạm giam mà sau khi tuyên án không được trả tự do nhưng không có lệnh mà chỉ tuyên "tiếp tục tạm giam" trong bản án.

Cần nhấn mạnh rằng, chế độ của bị cáo bị áp dụng Điều 228 BLTTHS là chế độ tạm giam. Theo Điều 233 BLTTHS thì Ban giám thị trại giam phải bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền kháng cáo, đây là dấu hiệu cơ bản để phân biệt chế độ tạm giam và giam trong quá trình thi hành án.

+ Về việc tạm giam để chuẩn bị xét xử phúc thẩm, để xét xử phúc thẩm

Điều 243 BLTTHS quy định: "Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn". Quy định này áp dụng cho Tòa án cấp phúc thẩm có nội dung và phạm vi áp dụng khác với ở cấp sơ thẩm. Chẳng hạn, nếu ở cấp sơ thẩm việc bắt giam bị cáo tại phiên tòa (Điều 228 BLTTHS) chỉ được tiến hành nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục gây án thì ở cấp phúc thẩm chỉ cần bị cáo bị phạt tù thì HĐXX phải bắt giam ngay, trừ trường hợp quy định tại Điều 261 BLTTHS (trường hợp được hoãn thi hành hình phạt tù).

Tuy nhiên, trên thực tế không phải lúc nào việc bắt bị cáo ngay tại phiên tòa cũng thuận lợi như luật định. Việc bắt bị cáo ngay tại phiên tòa khi tuyên án thường gặp một số trở ngại. Hầu hết các bị cáo tại ngoại đến phiên tòa thường có thân nhân đi kèm và nếu họ bị bắt ngay tại phiên tòa thì thân nhân của họ kêu khóc, chửi bới, không ít trường hợp làm cho phiên tòa mất trật tự hàng giờ mới ổn định để tiếp tục xét xử vụ án khác. Vì vậy, trong những trường hợp này, cũng cần phải có hướng dẫn chi tiết để HĐXX phúc thẩm sẽ dự liệu trước tình huống có thể xảy ra để lên kế hoạch áp dụng các biện pháp đảm bảo cho quá trình xét xử.

2.3.2. Những hạn chế trong công tác áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tố tụng hình sự

2.3.2.1. Việc lạm dụng biện pháp tạm giam

Qua nghiên cứu cho thấy nhiều trường hợp, căn cứ tạm giam chưa được thể hiện cụ thể. Nhìn chung trong quá trình điều tra vụ án, khi đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn quyết định tạm giam, đa số các trường hợp trong công văn yêu cầu đều ghi căn cứ chung chung như “để đảm bảo cho công tác điều tra, xử lý”, “thấy rằng cần thiết phải tạm giam bị can, không để bị can trốn thoát”, “không để bị can tiếp tục phạm tội”… mà ít đưa ra các căn cứ cụ thể. Cũng không loại trừ trường hợp Cơ quan điều tra sử dụng tạm giam như là biện pháp nghiệp vụ để buộc bị can khai nhận tội. Mặc dù điều 177 BLTTHS quy định sau khi nhận hồ sơ vụ án, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án hoặc Phó chánh án Tòa án quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ BPTG, nhưng trên thực tế, sau khi thụ lý hồ sơ thông thường Viện kiểm sát, Tòa án tiếp tục áp dụng biên pháp ngăn chặn tạm giam mà Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát đã áp dụng, rất ít trường hợp Viện kiểm sát thay đổi hoặc hủy bỏ BPTG đã áp dụng trước đó.

Các biện pháp ngăn chặn không giam giữ rất ít được áp dụng trên thực tế, số bị can bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú chỉ vào khoảng 30%. Biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo hầu như không được áp dụng đối với bị can, bị cáo là người Việt Nam.

Sở dĩ tỷ lệ bị can, bị cáo bị áp dụng BPTG cao và ít được hủy bỏ thay thế là do căn cứ áp dụng BPTG liên quan đến nhận định chủ quan của người áp dụng chưa rõ ràng. Đối với loại tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng thì theo quy định của điểm a khoản 1 điều 88 BLTTHS trong mọi trường hợp người có thẩm quyền đều có thể áp dụng tạm giam mà không cần thêm bất cứ một căn cứ nào. Do căn cứ áp dụng như vậy lại trong điều kiện điều tra, truy

tố, xét xử trên địa bàn rộng, cho nên không ít trường hợp việc áp dụng tạm giam đối với bị can, bị cáo rất tiện lợi cho tiến hành tố tụng nhưng vẫn không trái pháp luật. Hơn nữa, tính chất cưỡng chế của các biện pháp ngăn chặn không giam giữ không rõ ràng cộng với thói quen “đã phạm tội là phải bị bắt giam” vẫn tồn tại ở nước ta, ở nhiều người, trong dư luận xã hội và thậm chí ở một số người tiến hành tố tụng cũng dẫn đến tình trạng trên. Trong quá trình tham gia bào chữa các vụ án hình sự, giới luật sư đã ghi nhận được một thực tế là BPTG đang bị lạm dụng như một biện pháp nghiệp vụ của cơ quan điều tra, thay vì đây là biện pháp ngăn chặn nhằm đảm bảo việc điều tra được thực hiện đúng pháp luật.

2.3.2.2. Về việc quá hạn tạm giam

Nhìn chung qua nghiên cứu cho thấy trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn vẫn để xảy ra việc tạm giam quá hạn tạm giam. Trong các vụ, hồ sơ bị can, bị cáo bị tạm giam phải kéo dài thời hạn tạm giam do phải xin ý kiến chỉ đạo của các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp. Việc quá hạn tạm giam đã xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích của người bị tạm giam. Theo báo cáo công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự tỉnh Bắc Kạn thì giai đoạn 2010 – 2014 có 11 trường hợp bị can bị áp dụng tạm giam quá hạn, trong giai đoạn điều tra là 10 trường hợp, trong giai đoạn truy tố là 1 trường hợp.

2.3.2.3. Về việc quá tải trại giam

Nhìn chung, việc đảm bảo diện tích tối thiểu cho mỗi người giam, giữ ở các nhà tạm giữ, tạm giam, trại giam trên cả nước đều đảm bảo đủ từ 2m2/người trở lên. Tuy nhiên, ở một số trại giam xảy ra tình trạng vượt quá quy mô giam giữ, do đó chỗ nằm tối thiểu của người bị tạm giam không được đảm bảo, việc cấp phát đồ dùng sinh hoạt thiết yếu vẫn còn thiếu. Việc này chỉ là cá biệt và diễn ra ở một số trại giam. Tuy nhiên, tình trạng này cũng vẫn làm ảnh hưởng đến các quyền của người bị giam, giữ đồng thời làm giảm hiệu quả giáo dục, cải tạo phạm nhân.

Xem tất cả 110 trang.

Ngày đăng: 01/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí