xét, cấp giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rò lý do [42, Điều 56].
Bảo đảm thực hiện quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, BLTTHS 2003 đã có những quy định về quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, quyền và nghĩa vụ của người bào chữa đảm bảo chắc chắn cho việc thực thi pháp luật trên thực tế, cụ thể: quy định tại Điều 48, Điều 49, Điều 50, Điều 56, Điều 58.
Người bị tạm giữ được biết lý do mình bị tạm giữ; bị can, bị cáo biết rò mình bị truy cứu trách nhiệm về tội gì. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải bảo đảm cho người bị tạm giữ biết mình lý do tạm giữ, bị can, bị cáo biết mình bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gì trên cơ sở người bị tạm giữ được giao quyết định tạm giữ; bị can, bị cáo được giao bản sao quyết định khởi tố, quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn, bản kết luận điều tra, bản cáo trạng. Bị cáo được giao nhận bản án sau khi xét xử. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ. Người bị tạm giữ có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu nhằm chứng minh họ không liên quan đến vụ việc mà họ bị bắt giữ, họ cũng có quyền xác minh lại sự việc, yêu cầu xác minh lại sự việc, yêu cầu CQĐT đưa ra những bằng chứng được coi là căn cứ bắt giữ họ. Bị can có quyền cung cấp những tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án, CQĐT khi nhận được các tài liệu, đồ vật do bị can cung cấp phải tiến hành kiểm tra, đánh giá một cách khách quan để xác định các tài liệu, đồ vật đó có phải là chứng cứ trong vụ án hay không? Bị can cũng có quyền đưa ra những yêu cầu như: yêu cầu thông báo về nội dung kết luận giám định; được trình bày những ý kiến của mình về kết luận giám định; được yêu cầu giám định bổ sung, giám định lại. Trong trường hợp CQĐT, VKS không chấp nhận yêu cầu của bị can thì phải nêu rò lý do và phải thông báo cho họ biết [42, Điều 158]; Nếu việc điều tra bị đình chỉ theo quy định tại điểm 5 và điểm 6 Điều 107 BLTTHS 2003 mà bị can không đồng ý và yêu cầu điều tra lại thì CQĐT hoặc VKS
ra quyết định phục hồi điều tra… [42, Điều 165]. Bị cáo có quyền đưa ra các tài liệu, đồ vật tại phiên tòa xét xử. Những tài liệu, đồ vật mà bị cáo đưa ra thông thường có ý nghĩa gỡ tội cho bị cáo, chứng minh bị cáo không phạm tội hoặc chứng minh những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo…HĐXX phải kiểm tra, xác minh và đánh giá các đồ vật, tài liệu đó có phải là chứng cứ trong vụ án không và giá trị của nó trong việc xác định sự thật của vụ án. Bị cáo có thể đưa ra những yêu cầu: yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng; yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét; yêu cầu hoãn phiên tòa [42, Điều 205]; yêu cầu xem biên bản phiên tòa và yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa và ký xác nhận [42, Điều 200]. HĐXX xem xét và giải quyết yêu cầu của bị cáo. Người bị tạm giữ, bị can có quyền trình bày lời khai, bị cáo có quyền trình bày ý kiến tranh luận tại phiên tòa; có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, bị cáo có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án. Bị can có quyền tham gia một số hoạt động điều tra. Khi khám nghiệm hiện trường và khi tiến hành thực nghiệm điều tra trong trường hợp cần thiết bị can cũng có thể tham gia [42, Điều 150, 153]. Bị cáo có quyền tham gia phiên tòa, Tòa chỉ được xét xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 187 BLTTHS còn các trường hợp khác nếu bị cáo vắng mặt đều phải hoãn phiên tòa. Tham gia phiên tòa cũng là nghĩa vụ của bị cáo, nếu bị cáo vắng mặt tại phiên tòa mà không có lý do chính đáng thì sẽ bị áp giải. Bị cáo có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của BLTTHS. Bị cáo là đối tượng bị đưa ra xét xử, là đối tượng bị buộc tội trong vụ án hình sự, việc xét xử như thế nào ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và nghĩa vụ của bị cáo, vì vậy, bị cáo có quyền được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch khi có căn cứ rò ràng để cho rằng họ không vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Bị cáo có thể thực hiện quyền này trước hoặc tại phiên tòa khi HĐXX hỏi. Trước
khi mở phiên tòa, trong thời gian chuẩn bị xét xử, nếu bị cáo yêu cầu thay đổi kiểm sát viên, thành viên HĐXX, Thư ký Tòa án thì Viện trưởng VKS và Chánh án Tòa án xem xét giải quyết yêu cầu của bị cáo [42, Điều 60, 61]. Tại phiên tòa, khi bị cáo có yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch thì HĐXX phải xem xét quyết định. Bị cáo có quyền trình bày ý kiến tranh luận tại phiên tòa [42, Điều 50, khoản 2, điểm g]. Đây là quyền giúp bị cáo phát huy cao nhất quyền tự bào chữa của mình tại phiên tòa. Bị cáo có quyền trình bày ý kiến về luận tội của kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình. Khi trình bày ý kiến tranh luận tại phiên tòa, bị cáo bình đẳng với kiểm sát viên và người tham gia tranh luận khác. Theo nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án - Điều 19 BLTTHS và theo quy định tại Điều 218 BLTTHS thì Tòa án, chủ tọa phiên tòa có trách nhiệm tạo điều kiện cho bị cáo tranh luận, trình bày hết ý kiến nhằm làm rò sự thật khách quan của vụ án. Bị cáo có quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án. Sau khi HĐXX kết thúc xét hỏi và tranh luận, bị cáo được nói lời sau cùng trước khi nghị án. Pháp luật quy định quyền này là để tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội được trình bày thái độ, nguyện vọng của mình trước khi HĐXX đưa ra những quyết định đối với vụ án. Trong khi nói lời sau cùng, bị cáo có quyền trình bày mọi vấn đề liên quan tới vụ án, tỏ thái độ của mình đối với việc buộc tội…
Hiện nay, do trình độ dân trí và ý thức pháp luật của nhân dân ta còn hạn chế hay do bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng: tạm giữ, tạm giam nên người bị tạm giữ, tạm giam không thể thực hiện đầy đủ và hiệu quả quyền tự bào chữa của mình. Chính vì vậy BLTTHS 2003 quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhờ người khác bào chữa. Để đảm bảo quyền nhờ người khác bào chữa điều 58 BLTTHS quy định quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, cụ thể như sau:
- Người bào chữa có quyền tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 BLTTHS thì
người bào chữa tham gia từ khi có quyết định tạm giữ. Việc quy định người bào chữa có quyền tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ, khi khởi tố bị can là cần thiết để đảm bảo cho việc tạm giữ và khởi tố bị can là có căn cứ và hợp pháp, đồng thời cũng đảm bảo việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế là cần thiết, tránh tình trạng tạm giữ, tạm giam bừa bãi và không đúng mục đích. Đồng thời, quy định thời điểm tham gia tố tụng từ rất sớm của người bào chữa nhằm đảm bảo cho người bào chữa có thể tiếp cận vụ án từ giai đoạn đầu và có cái nhìn toàn diện hơn về vụ án, quy định này cũng nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ. Tuy nhiên, không phải lúc nào người bào chữa cũng được tham gia tố tụng sớm như vậy, trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng VKS quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác.
- Được có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can, người bào chữa có cơ hội được trực tiếp nghe người tạm giữ, bị can trình bày về những tình tiết của vụ án. Trong quá trình xét hỏi, người bào chữa có thể phát hiện ra những tình tiết có ý nghĩa có lợi cho người bị tạm giữ, bị can. Khi được Điều tra viên cho phép, người bào chữa có thể dùng những câu hỏi khéo léo của mình làm sáng tỏ những tình tiết minh oan cho người bị tạm giữ, minh oan hoặc làm giảm nhẹ tội cho bị can. Mặt khác, sự có mặt của người bào chữa trong khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, trong khi hỏi cung bị can sẽ làm cho người bị tạm giữ, bị can ổn định hơn về mặt tâm lý, yên tâm khai báo chính xác sự việc. Đồng thời, sự có mặt của người bào chữa cũng ngăn ngừa những vi phạm pháp luật từ phía Điều tra viên, tránh tình trạng Điều tra viên dụ cung, mớm cung, dùng nhục hình, ép cung đối với người bị tạm giữ, bị can. Khi phát hiện Điều tra viên vi phạm pháp luật trong quá trình
lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can thì người bào chữa có quyền khiếu nại tới cơ quan có thẩm quyền để xử lý. Người bào chữa được có mặt trong những hoạt động điều tra khác, đó là các hoạt động điều tra quy định tại các chương XI, XII, XIII của BLTTHS khi được Điều tra viên đồng ý. Khi tham gia các hoạt động này người bào chữa có điều kiện thu thập thêm một số tình tiết có ý nghĩa trong việc gỡ tội hoặc giảm trách nhiệm hình sự của bị can.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Quy Định Về Bảo Đảm Quyền Con Người Đối Với Người Bị Tạm Giữ, Tạm Giam Trong Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam Từ Sau Cách Mạng Tháng 8
- Các Quy Định Của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Năm 2003 Về Bảo Đảm Quyền Con Người Đối Với Người Bị Tạm Giữ, Tạm Giam
- Quy Định Bảo Đảm Quyền Không Bị Tra Tấn, Đối Xử Hoặc Trừng Phạt Tàn Bạo, Vô Nhân Đạo Hoặc Hạ Nhục
- Những Kết Quả Đạt Được Trong Việc Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Tố Tụng Hình Sự Đối Với Người Bị Tạm Giữ, Tạm Giam Trên Địa Bàn Thành
- Những Bất Cập, Hạn Chế Trong Việc Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Tố Tụng Hình Sự Đối Với Người Bị Tạm Giữ, Tạm Giam Trên Địa Bàn Thành Phố
- Số Người Bị Tạm Giữ, Tạm Giam Chết Từ Năm 2010 Đến Năm 2014
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
- Người bào chữa có quyền được xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định có liên quan tới người mà mình bào chữa. Người bào chữa có quyền đề nghị CQĐT thông báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can. Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch. Xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng (Điều 14 BLTTHS 2003) và bảo đảm quyền lợi của người bị tạm giữ bị can, bị cáo khi có căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng tại Điều 42, người giám định tại khoản 4 Điều 60, người phiên dịch tại khoản 4 Điều 61, người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền thay đổi những người nói trên.
- Người bào chữa có quyền đưa ra đồ vật, tài liệu, yêu cầu.
Trong quá trình làm nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, người bào chữa có thể phát hiện ra những đồ vật, tài liệu mà các cơ quan tiến hành tố tụng chưa phát hiện được. Trong trường hợp này, người bào chữa có quyền đưa ra những đồ vật, tài liệu đó để cơ quan tiến hành tố tụng xem xét nhưng chỉ khi những đồ vật, tài liệu đó có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và không làm xấu đi tình trạng hiện thời của họ, như: những đồ vật, tài liệu chứng minh sự vô tội của bị can, bị cáo, chứng minh sự không liên quan của người bị tạm giữ đến những căn cứ là lý do bắt giữ họ…. Người bào chữa có quyền đưa ra có yêu cầu: yêu cầu trưng cầu giám định,…cơ
quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền đưa ra yêu cầu của người bào chữa, nếu không đồng ý với những yêu cầu đó thì phải nêu rò lý do.
- Người bào chữa có quyền thu thập những tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật Nhà nước, bí mật công tác. Quy định này nhằm đảm bảo trong quá trình tiếp xúc giữa người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của họ với người bào chữa, những người này có thể tin tưởng giao cho người bào chữa những tài liệu, đồ vật hoặc nói với người bào chữa những tình tiết mà vì một lý do nào đó họ không giao cho hoặc nói cho CQĐT, VKS. Hoặc người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vì lý do đang bị tạm giữ, tạm giam… không thể thu thập được đồ vật, tài liệu thì có thể yêu cầu người bào chữa thu thập giúp mình. Những tình tiết, tài liệu, đồ vật này có thể được dùng làm căn cứ chứng minh cho sự vô tội của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc làm giảm nhẹ tội cho bị can, bị cáo. Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật, tài liệu liên quan tới vụ án thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho CQĐT, VKS. Việc giao nhận các tài liệu đó phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 BLTTHS.
- Người bào chữa có quyền gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam. Khi gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bị tạm giam, qua trao đổi, người bào chữa sẽ giúp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bị tạm giam nhận thức đứng đắn việc bào chữa là nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của họ trên cơ sở những quy định của pháp luật và tôn trọng sự thật khách quan của vụ án; giải thích những vấn đề về pháp luật liên quan, cần thiết, mà người bị tạm giữ, tạm giam chưa hiểu hoặc chưa biết cách trình bày trước các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm minh oan hoặc làm giảm nhẹ tội cho mình…
- Người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án có liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra
theo quy định của pháp luật. Quyền này được thực hiện sẽ giúp người bào chữa nắm vững được các tình tiết của vụ án. Có đọc hồ sơ, người bào chữa mới biết bị can, theo điều khoản nào của BLHS, mới nắm được bị can bị buộc tội trên cơ sở nào từ đó mới tìm ra chứng cứ gỡ tội cho bị can.
- Người bào chữa có quyền tham gia xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa; có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 57 của BLTTHS. Kháng cáo của người bào chữa phải theo hướng có lợi cho bị cáo; có quyền tham gia phiên tòa phúc thẩm.
- Người bào chữa có nghĩa vụ: Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng khi thu thập được những tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm bàn giao cho CQĐT, VKSND, TAND. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 BLTTHS; Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng; Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bảo chữa không được sử dụng các tài liệu, đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án với mục đích xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân; Người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành
chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Cùng với các quy định về quyền, các quy định về nghĩa vụ của người bào chữa sẽ giúp cho người bào chữa thực hiện nhiệm vụ tốt hơn, bảo vệ quyền và lợi ích của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đồng thời bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không chỉ thể hiện sự nhân đạo của TTHS Việt Nam, mà còn do yêu cầu bảo đảm sự khách quan trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Bảo đảm sự khách quan là nền tảng bảo đảm sự công bằng, công lý trong TTHS. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng là đảm bảo quyền tự vệ của mỗi thể nhân, là quyền tự nhiên của con người.
2.2. THỰC TIỄN VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Trong những năm gần đây, công tác bắt, giam giữ người đã trở thành
một vấn đề thu hút sự chú ý của cơ quan Nhà nước, nhiều tổ chức xã hội và đông đảo các tầng lớp nhân dân. Việc bắt người tùy tiện, bắt oan người không có tội, tạm giữ, tạm giam người không có lệnh hoặc quá hạn đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến QCN, lợi ích hợp pháp của công dân. Bắt người, tạm giữ, tạm giam oan sai tuy chưa phải là hiện tượng phổ biến nhưng đã xảy ra ở nhiều địa phương, gây sự bất bình trong dư luận xã hội, có trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng. Trong thực tế, tình trạng người bị tạm giữ không đúng đối tượng còn diễn ra, vẫn xảy ra tình trạng tạm giữ cả những người bị bắt khi phạm tội quả tang những sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng hay việc tạm giữ cả những người bị bắt có nơi cư trú rò ràng và không có hành động, biểu hiện sẽ cản trở việc điều tra. Tình trạng tạm giam quá hạn còn xảy ra; giam giữ quá tải vẫn chưa được khắc phục.