Biện pháp quản lý thực hiện chương trình giáo dục lý luận chính trị tại các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện tỉnh Thái Nguyên - 2


Trong lịch sử nghiên cứu phát triển giáo dục, có ba cách tiếp cận khác nhau khi xây dựng chương trình giáo dục. Đó là cách tiếp cận nội dung, cách tiếp cận mục tiêu và cách tiếp cận quá trình (hay còn gọi là cách tiếp cận phát triển). Tương ứng với 3 cách tiếp cận này là các phương pháp quản lý chương trình giáo dục.

* Với cách tiếp cận nội dung:

Đây là cách tiếp cận truyền thống trong xây dựng chương trình đào tạo. Cách tiếp cận này đã và đang được nhiều giáo viên và các nhà làm công tác xây dựng chương trình sử dụng. Nội dung khối lượng kiến thức chương trình thường ngắn gọn, chắt lọc, đảm bảo nguyên lý giáo dục và mang tính thời sự; theo khuôn mẫu định sẵn; nhưng thường là một chiều, mang tính áp đặt, giáo viên không có cơ hội để bổ sung tài liệu hoặc thay đổi hình thức dạy học, người học thụ động.

Quản lý chương trình giáo dục theo cách tiếp cận này chủ yếu là quản lý nội dung, khối lượng công việc giáo viên hoàn thành trong một quỹ thời gian đã định trước. Với phương pháp quản lý này, về cơ bản người quản lý nhìn vào khối lượng công việc hoàn thành để đánh giá chất lượng công việc; khó có thể kích thích được sự năng động, sáng tạo của người học khi thực hiện chương trình nên hiệu quả không cao. Cách tiếp cận này hiện nay đã trở nên lạc hậu, nhiều quốc gia cũng như các trường học khác nhau trên thế giới không còn sử dụng để xây dựng chương trình giáo dục hoặc đã có những cải tiến đáng kể.

* Với cách tiếp cận mục tiêu:

Theo cách tiếp cận này thì xuất phát điểm của việc xây dựng chương trình giáo dục phải là mục tiêu giáo dục. Mục tiêu giáo dục tạo được thể hiện dưới dạng mục tiêu đầu ra, thể hiện qua những hành vi của người học (theo một khuôn mẫu nhất định).


Quản lý chương trình giáo dục ở đây là quản lý sản phẩm đào tạo, quản lý kết quả cuối cùng của một chương trình đào tạo; người ta quan tâm đến việc người học sau khi học xong có khả năng "làm" được những việc gì hay thực hiện được những gì về mặt nhận thức, kỹ năng cũng như tình cảm và thái độ; không quản lý quá trình đạt đến mục đích, mục tiêu.

Khi yếu tố mục tiêu được xác định rõ ràng, cụ thể ở các cấp độ khác nhau (dài hạn và ngắn hạn), người dạy có thể căn cứ vào đó để lựa chọn nội dung, phương pháp, cách đánh giá và đặc biệt là tài liệu để giảng dạy. Người học có thể không cần lên lớp nghe giảng, chỉ cần phát tài liệu, hướng dẫn đọc tài liệu, sau đó làm bài thu hoạch đạt yêu cầu là được.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 87 trang tài liệu này.

Cách tiếp cận này vẫn xem người học là bị động, không thể giúp phát triển các năng lực tiềm ẩn ở mỗi cá nhân người học, tất cả người học đều phải chịu sự rèn giũa theo một khuôn mẫu cứng nhắc đã được xác định trước; khó có thể áp dụng cho các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn cũng như trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Cách thức tổ chức quản lý chương trình giáo dục dễ dẫn đến bệnh hình thức và máy móc.

Đối với quản lý chương trình giáo dục LLCT, phương pháp quản lý này không phù hợp. Tuy nhiên chúng ta cần nghiên cứu để sử dụng hợp lý, khuyến khích các mặt tích cực của phương pháp quản lý này.

* Với cách tiếp cận quá trình (tiếp cận phát triển):

Đây là cách tiếp cận đang được sử dụng ở nhiều nước trên thế giới. Cách tiếp cận này xem chương trình đào tạo là quá trình, còn giáo dục là sự phát triển. Giáo dục là sự phát triển với nghĩa là phát triển con người, phát triển một cách tối đa mọi tiềm năng tiềm ẩn trong mỗi con người, làm cho con người có khả năng làm chủ tình huống, đương đầu được với những thách thức mà mình sẽ gặp phải trong đời một cách chủ động và sáng tạo. Giáo dục là quá trình diễn ra liên tục, suốt đời, do vậy mục đích cuối cùng không phải là


thuộc tính của nó. Cách tiếp cận này mang tính toàn diện, chú trọng nhiều đến khía cạnh nhân văn.

Bản chất của quản lý chương trình giáo dục theo cách tiếp cận quá trình là quản lý sự phát triển con người, sự hình thành và phát triển nhân cách; chủ thể quản lý nắm bắt được những diễn biến, quá trình phát triển của đối tượng quản lý.

Khi chương trình giáo dục được xây dựng theo kiểu quá trình, người học được coi là trung tâm, người thầy trở thành người cố vấn cung cấp thông tin, hướng dẫn người học tìm kiếm và thu thập thông tin, gợi mở giải quyết vấn đề. Những nội dung và phương thức giáo dục đào tạo thường xuyên đạt được nhu cầu và trình độ của người học. Người thầy đánh giá người học qua một quá trình làm việc chứ không phải kết quả cuối cùng. Quản lý theo cách tiếp cận này huy động được mọi nguồn lực tham gia vào quá trình quản lý, trong đó người học phải là người chủ động, tích cực tham gia vào quá trình dạy và học.

1.1.2- Lý luận và lý luận chính trị:

Lý luận là hệ thống những tri thức đã được khái quát, tạo ra một quan niệm hoàn chỉnh về các quy luật và về mối liên hệ cơ bản của hiện thực. Lý luận là sự phản ánh và tái hiện hiện thực khách quan. Mọi Lý luận đều quy định bởi hoàn cảnh lịch sử, được hình thành từ điều kiện cụ thể của lịch sử sản xuất, kỹ thuật và thực nghiệm. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”[42, tr.487].

Theo nghĩa rộng, Lý luận là một dạng hoạt động của con người nhằm thu nhận tri thức về hiện thực tự nhiên, xã hội và cùng với thực tiễn tạo thành hoạt động tổng thể của xã hội. Thuật ngữ Lý luận đồng nghĩa với các hình thức có tổ chức cao và phát triển nhất của ý thức xã hội. Với tư cách là sản phẩm cao nhất của tư duy có tổ chức, Lý luận biểu hiện quan hệ gián tiếp của


con người đối với hiện thực và là điều kiện cho sự cải biến thực sự có ý thức hiện thực.

Theo nghĩa hẹp, Lý luận là một dạng tri thức khoa học đáng tin cậy về một tổng thể các khách thể nào đó. Nó là hệ thống các luận điểm gắn bó chặt chẽ với nhau về mặt lô gíc và phản ánh bản chất, các quy luật hoạt động, phát triển của khách thể để nghiên cứu.

Lý luận cách mạng tạo nên nền tảng tư tưởng của đảng. Đảng ra đời trên nền tảng tư tưởng đó, tức là có lý luận một cách cơ bản nhất; những người giác ngộ, tiên tiến cùng nhau xây dựng tổ chức đảng theo lý luận đó. Khi đảng ra đời, cương lĩnh hành động, đường lối chiến lược, sách lược do đảng đề ra cũng dựa trên nền tảng tư tưởng đó.

Chính trị là một lĩnh vực đặc biệt rất phức tạp, nó liên quan đến lợi ích trực tiếp của các giai cấp và các lực lượng xã hội nên có nhiều cách tiếp cận và nhìn nhận khác nhau.

Trong Từ điển Triết học giản yếu của Việt Nam, nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, xuất bản năm 1987, cho rằng: Chính trị là lĩnh vực hoạt động gắn liền với mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các tập đoàn xã hội khác nhau, mà hạt nhân là vấn đề giành, giữ và sử dụng chính quyền nhà nước.

Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học Việt Nam, Nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản năm 1994, cho rằng: Chính trị là những vấn đề thuộc về tổ chức điều khiển bộ máy nhà nước trong nội bộ một nước và quan hệ quốc tế về mặt nhà nước giữa các nước với nhau...

Những quan điểm nêu trên đã nêu lên bản chất của Chính trị là tính giai cấp, mối quan hệ và mục tiêu của các giai cấp, các lực lượng chính trị trong việc giành quyền điều khiển nhà nước. Để đánh giá sự tiến bộ của xã hội thông qua việc thực hiện dân chủ mà dân chủ cao nhất, đầy đủ nhất, triệt để nhất là quyền làm chủ của nhân dân đối với nhà nước, V.I. Lênin cho rằng:


Chính trị là sự tham gia của nhân dân vào công việc của nhà nước; “... chính trị phải là việc của nhân dân, việc của giai cấp vô sản”[59, tr.482]. Khi xem xét nguồn gốc, bản chất chính trị về mặt lợi ích, V.I. Lênin lại cho rằng: Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế.

Khi tiếp cận Chính trị với tư cách hình thức hoạt động nhằm duy trì quyền lực chính trị có thể thấy: Chính trị là những hoạt động tổ chức, điều hành, quan hệ của bộ máy đảng, nhà nước. Vì vậy, Chính trị có thể hiểu là những hoạt động của một số cá nhân, một giai cấp, một chính đảng, một tập đoàn xã hội nhằm giành hoặc duy trì quyền điều hành bộ máy nhà nước, giành quyền lực chính trị.

Như vậy, có thể thấy Chính trị là vấn đề đa dạng, phức tạp, nhiều mối quan hệ, nhiều lĩnh vực nghiên cứu xem xét và sử dụng theo mục đích, yêu cầu riêng của từng môn khoa học. Song, điều quan trọng của tất cả các vấn đề liên quan đến Chính trị, thực hiện được mục đích của chính trị, tức là giành được quyền lực chính trị của giai cấp này hoặc giai cấp khác đối với toàn xã hội.

Từ đó, có thể hiểu Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các cộng đồng xã hội trong vấn đề chính quyền nhà nước; là sự tham gia của nhân dân vào các công việc của nhà nước; là tổng hợp những phương thức, phương pháp, những hoạt động thực tiễn của các giai cấp, các đảng phái để giành, giữ và điều khiển hoạt động của nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp mình.

Qua thực tiễn của cách mạng Việt Nam, trong phạm vi đề tài này, chúng ta tiếp cận đến Chính trị với tư cách là những hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam nhằm giác ngộ, nâng cao nhận thức cho quần chúng nhân dân. Trong đó, cán bộ, đảng viên cơ sở là lực lượng nòng cốt để lãnh đạo, tổ chức quần chúng nhân dân thực hiện mục đích của Đảng là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Đảng Cộng sản đặc biệt quan tâm tới vấn đề LLCT. Chỉ dựa trên nền tảng lý luận Mác - Lênin, Đảng mới có thể nhận thức sâu sắc được những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội và vận dụng chúng vào sự nghiệp cách mạng cao cả. LLCT của chủ nghĩa cộng sản khoa học không chỉ giải thích thế giới một cách khoa học, bóc trần sự bất công tồn tại trong các xã hội có giai cấp đối kháng mà còn chỉ rõ căn nguyên của những áp bức, bất công đó, đồng thời vạch ra con đường, phương thức đấu tranh nhằm xoá bỏ chế độ bất bình đẳng, xây dựng xã hội mới văn minh, tiến bộ.

LLCT của chủ nghĩa cộng sản khoa học hướng dẫn các đảng Cộng sản xác định được nhiệm vụ chủ yếu. Lênin đã viết; “Lý luận đó đã chỉ rõ nhiệm vụ thật sự của một đảng xã hội chủ nghĩa cách mạng không phải là đặt ra những kế hoạch cải tạo xã hội, không phải là khuyên nhủ bọn tư bản và tôi tớ của chúng cải thiện đời sống cho công nhân, không phải là sắp đặt những cuộc âm mưu, mà là tổ chức cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản và lãnh đạo cuộc đấu tranh đó mà mục đích cuối cùng là giai cấp vô sản giành lấy chính quyền và tổ chức xã hội xã hội chủ nghĩa”[57, tr.231]. Vì vậy, LLCT luôn là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của một đảng.

1.1.3- Quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT tại các TTBDCT chính trị cấp huyện:

Giáo dục LLCT là một bộ phận cơ bản trong công tác tư tưởng của Đảng; là quá trình phổ biến, truyền bá có hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Giáo dục LLCT được thực hiện theo các chương trình quy định, nhằm xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học, nhân sinh quan cộng sản, tạo nên bản lĩnh chính trị, niềm tin có cơ sở khoa học, vững chắc vào mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa; nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn, giáo dục đạo đức, lối sống, tinh


thần tự giác và tính cực trong các hoạt động xã hội cho mọi tầng lớp nhân dân đáp ứng yêu cầu của từng thời kỳ phát triển đất nước.

Để đạt được mục đích và yêu cầu đó, đòi hỏi việc quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT cần có một thiết chế tổ chức với những hình thức và phương pháp tiên tiến, phù hợp với những đặc trưng riêng của nó. Nghĩa là khi tiến hành thực hiện chương trình giáo dục LLCT đòi hỏi phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản của lý luận dạy học và phương pháp dạy học tiên tiến như: Hệ thống chương trình, hệ thống tổ chức chỉ đạo và thực hiện, giáo trình, sách giáo khoa, đội ngũ cán bộ giảng dạy (giảng viên), cơ sở vật chất (trường, lớp, phấn, bảng,... và các phương tiện kỹ thuật khác để phục vụ cho quá trình dạy và học).

Trong hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, chương trình giáo dục LLCT có nhiều cấp độ khác nhau như: Cử nhân, cao cấp, trung cấp, sơ cấp, bồi dưỡng ngắn hạn,... Ngoài ra còn có các chương trình giáo dục lý luận chuyên đề; chương trình học tập, quán triệt các nghị quyết Đại hội Đảng, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, Ban Bí thư; kế hoạch tự học theo hướng dẫn của cơ quan phụ trách;…

Quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT bao gồm các khâu: Từ phân cấp lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện; xây dựng lịch trình thực hiện; lựa chọn phương pháp thực hiện đến tổ chức thực hiện, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học viên. Trong phạm vi Luận văn này, tác giả xin phép được tập trung nghiên cứu về quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT tại các TTBDCT cấp huyện tỉnh Thái Nguyên.

* Sự ra đời của TTBDCT cấp huyện:

Vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu đi từ khủng hoảng đến sụp đổ, phong trào cách mạng thế giới lâm vào thoái trào đã ảnh hưởng rất lớn đến Việt


Nam. Từ đó gây nên những khó khăn không nhỏ trong công tác giáo dục LLCT, trước hết là những vấn đề cơ bản như: Khẳng định giá trị bền vững của Học thuyết Mác - Lênin, định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng,... Trong khi đó, tình hình kinh tế - xã hội nước ta chưa ra khỏi khủng hoảng. Cán bộ, đảng viên có biểu hiện ngại học LLCT, hệ thống trường Đảng huyện không duy trì được. Trước tình hình đó, Đảng ta đã thực hiện đường lối đổi mới phát triển đất nước. Sau gần 10 năm thực hiện, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào chủ nghĩa Mác - Lênin, vào con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, vào sự lãnh đạo của Đảng được nâng lên.

Trong thời gian này, nhu cầu về giáo dục LLCT trong Đảng và trong xã hội được nâng dần lên. Các cấp ủy coi trọng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập LLCT. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi để khôi phục công tác giáo dục LLCT trên địa bàn huyện. Mặt khác, thực tiễn đòi hỏi cần phải có một tổ chức phù hợp, có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ cách mạng mới ở địa phương, cơ sở, đặc biệt là cố gắng đáp ứng nhu cầu học tập, phổ biến quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cho các đối tượng cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.

Trước tình hình đó, ngày 03 tháng 6 năm 1995 Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) đã ban hành Quyết định 100-QĐ/TW về việc thành lập TTBDCT cấp huyện trong cả nước.

Quyết định nêu rõ nhiệm vụ của TTBDCT cấp huyện là:

- Tổ chức bồi dưỡng về LLCT; nội dung các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ trên địa bàn cấp huyện không thuộc đối tượng đào tạo, bồi dưỡng của Trường Chính trị tỉnh, trước hết là bí thư chi bộ, trưởng thôn, trưởng bản, các đối tượng phát triển đảng viên, đảng viên mới,...


- Tổ chức thông tin khoa học, thời sự, chính sách cho đội ngũ báo cáo viên ở cơ sở để qua đó thông tin cho cán bộ, đảng viên trên địa bàn huyện.

- Thực hiện một số nhiệm vụ bồi dưỡng khác xuất phát từ nhu cầu thực tế của địa phương, do cấp ủy quy định.

Như vậy, sau nhiều năm lúng túng, khó khăn, chúng ta đã lập lại được một tổ chức bồi dưỡng LLCT trên địa bàn cấp huyện thống nhất trong cả nước vốn đã bỏ trống nhiều năm. Đây là công cụ sắc bén, quan trọng của cấp ủy để bồi dưỡng LLCT thường xuyên cho nhiều đối tượng đảng viên, quần chúng ở cơ sở, đáp ứng yêu cầu xây dựng hệ thống chính trị từ cơ sở; nâng cao giác ngộ LLCT cho đảng viên và quần chúng; thúc đẩy việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở, góp phần đẩy mạnh công cuộc đổi mới của đất nước.

Việc ra đời TTBDCT cấp huyện ở thời điểm đó là kết quả sau nhiều năm tìm tòi, bổ xung và kế thừa các loại hình đã có từ trước, đồng thời có tính đến đặc điểm của đất nước trong giai đoạn mới. Quyết định 100-QĐ/TW ra đời đã đáp ứng được yêu cầu thực tế ở cơ sở, được các địa phương rất hoan nghênh và tích cực thực hiện. Thực tiễn cũng cho thấy Quyết định này của Ban Bí thư vừa đúng, vừa trúng và đã đi nhanh vào cuộc sống, đóng góp to lớn vào sự phát triển của từng địa phương, cơ sở cũng như sự phát triển chung của đất nước trong suốt thời gian qua.

* Nội dung chương trình giáo dục LLCT tại các trung tâm:

Chương trình giáo dục LLCT tại các TTBDCT do Ban Tuyên giáo Trung ương (trước đây là Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương) biên soạn, phát hành và hướng dẫn thực hiện. Các trung tâm triển khai thực hiện dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Ban Tuyên giáo huyện ủy, cấp ủy cấp huyện.

Có thể hiểu tóm tắt hệ thống quản lý thực hiện nội dung chương trình giáo dục LLCT tại TTBDCT cấp huyện theo sơ đồ sau:


Hiện nay TTBDCT cấp huyện đang thực hiện các chương trình giáo dục LLCT cụ 1

Hiện nay, TTBDCT cấp huyện đang thực hiện các chương trình giáo dục LLCT cụ thể do Ban Tuyên giáo Trung ương ban hành như:

- Chương trình học tập các nghị quyết, chỉ thị của Đảng; thời sự, chính sách;

- Chương trình học tập chính trị cho học viên lớp bồi dưỡng kết nạp Đảng;

- Chương trình bồi dưỡng LLCT dành cho đảng viên mới;

- Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng cho bí thư chi bộ và cấp uỷ viên cơ sở;

- Chương trình sơ cấp LLCT;

- Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tuyên giáo ở cơ sở;

- Các chương trình chuyên đề: Giáo dục đạo đức cách mạng; Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam; Dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng ta; Tôn giáo và công tác tôn giáo ở cơ sở; Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

- Các chương trình ban hành có sự phối hợp giữa Ban Tuyên giáo Trung ương và các đoàn thể như: Chương trình bồi dưỡng 6 bài LLCT cho thanh niên; chương trình bồi dưỡng LLCT cho cán bộ hội cựu chiến binh cơ sở; chương trình bồi dưỡng tổ trưởng dân phố, trưởng thôn, trưởng bản; chương trình bồi dưỡng LLCT cho công nhân và người lao động;...


Ngoài ra, các trung tâm còn thực hiện những nhiệm vụ khác do cấp ủy huyện chỉ đạo.

Với nhiệm vụ, chức năng của TTBDCT cấp huyện nêu trên, chúng ta nhận thấy:

Nội dung cơ bản của giáo dục LLCT ở cơ sở là những vấn đề cơ bản, thiết thực về nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,... theo tài liệu và hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Trung ương.

Tổ chức lực lượng làm công tác giáo dục LLCT ở cơ sở bao gồm những lực lượng chủ yếu sau: Ban Tuyên giáo và TTBDCT cấp huyện; Ban Tuyên giáo cấp xã; lãnh đạo các đoàn thể nhân dân; giáo viên của hệ thống trường học ở cơ sở;...

Như vậy, trên cơ sở những khái niệm về chương trình và quản lý chương trình, lý luận và LLCT đã nêu ở phần trên, chúng ta có thể hiểu quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT tại các TTBDCT cấp huyện là sự tác động của chủ thể quản lý (những tập thể và cá nhân được giao nhiệm vụ) lên mọi thành viên ở cơ sở, trước hết là cán bộ, đảng viên và đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị của cơ sở ngoài diện đào tạo, bồi dưỡng do hệ thống trường Chính trị tỉnh, thành phố phụ trách, các thành viên của các đoàn thể nhân dân ở cơ sở nhằm nâng cao nhận thức và bản lĩnh chính trị, tạo ra sự nhất trí cao đối với chủ trương, đường lối của Đảng từ cơ sở, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.

1.2- Ý nghiã của việc quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT tại các TTBDCT cấp huyện

Giáo dục LLCT có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, trong sự nghiệp cách mạng của đất nước.

Các Mác đã chỉ rõ: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ


bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”[19, tr.580].

Phát triển quan điểm của Mác và Ănghen về vai trò của lý luận cách mạng, V. I. Lênin khẳng định: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”... “Chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sỹ tiên phong”[58, tr.30,32]. Đồng thời Lênin cũng đã nêu ra một cách cụ thể, sinh động những biện pháp tổ chức để tiến hành công tác tư tưởng, lý luận phải phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, thậm chí của từng ngành, địa phương, từng dân tộc, phù hợp với từng đối tượng khác nhau về lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp,... Ngoài ra, muốn xây dựng một chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân cũng đòi hỏi phải thường xuyên củng cố, bổ xung, phát triển lý luận cách mạng của đảng cầm quyền trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, làm cho các quan điểm, tư tưởng đó thấm sâu vào nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Có như vậy, cán bộ đảng viên mới đủ trình độ nhận thức LLCT để thực hiện các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, đồng thời lãnh đạo quần chúng thực hiện những nhiệm vụ đó.

V.I. Lênin cũng đã làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng, hữu cơ giữa công tác lý luận và hoạt động thực tiễn. Nếu không tiến hành công tác lý luận sẽ không có lý luận khoa học, cách mạng để chỉ đường, vạch lối cho hoạt động thực tiễn. Nếu không tiến hành hoạt động thực tiễn sẽ không có chất liệu bồi đắp cho lý luận; lý luận sẽ mất sức sống, sẽ không còn lý do tồn tại và phát triển. Mặt khác, nếu không tiến hành công tác giáo dục lý luận thì sẽ không đưa được lý luận vào quần chúng, biến thành tri thức, tình cảm, lý trí, nghị lực của họ và sẽ không biến lý luận thành sức mạnh vật chất trong hoạt động thực tiễn để cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, phục vụ cho con người ngày càng tốt hơn. Công tác lý luận, hoạt động thực tiễn là một hệ thống đồng bộ, chúng tạo cơ sở, điều kiện hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển.

Xem tất cả 87 trang.

Ngày đăng: 26/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí