Mục Đích- Ý Nghĩa Của Việc Áp Dụng Biện Pháp Ngăn Chặn Trong Giai Đoạn Xét Xử Sơ Thẩm

cứ nghi họ phạm tội. Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn các cơ quan có thẩm quyền chỉ được tiến hành trong phạm vi, giới hạn cũng như thủ tục mà Luật tố tụng hình sự quy định. Ngoài các đối tượng kể trên không ai có thể bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn, mọi hành vi áp dụng các biện pháp ngăn chặn không đúng đối tượng, thẩm quyền, căn cứ cũng như thủ tục đều bị coi là vi phạm pháp luật, người có hành vi vi phạm pháp luật tuy theo tính chất và mức độ có thể bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

Thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn là những người tiến hành tố tụng có thẩm quyền của các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc những người có chức vụ trong các cơ quan khác được giao thực hiện một số hoạt động tố tụng, công dân tham gia vào việc bắt người phạm tội quả tang. Tùy theo tính chất, đặc điểm của từng giai đoạn tố tụng, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, Luật tố tụng hình sự quy định cho cơ quan đó được áp dụng tất cả hay một số các biện pháp ngăn chặn và trong phạm vi, giới hạn cũng như theo thủ tục của Luật tố tụng hình sự.

Nội dung của các biện pháp ngăn chặn là hạn chế quyền tự do thân thể, tự do đi lại, quyền về tài sản... trong một thời gian, do vậy ảnh hưởng đến các quyền cơ bản cơ bản của công dân, đặc biệt là quyền tự do thân thể được quy định trong Hiến pháp. Vì vậy, so với các biện pháp cưỡng chế khác của Tố tụng hình sự thì biện pháp ngăn chặn có tính nghiêm khắc hơn nên khi áp dụng các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải cân nhắc thận trọng, tránh áp dụng tràn lan, tùy tiện, gây thiệt hại lợi ích hợp pháp của công dân. Luật tố tụng hình sự nước ta quy định các biện pháp ngăn chặn nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vụ án nhưng cũng đồng thời đòi hỏi khi áp dụng các cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân, không được áp dụng tùy tiện, chỉ khi nào thật cần thiết mới được áp dụng và trong khuôn khổ quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

BLTTHS Việt Nam hiện hành mặc dù không đưa ra một khái niệm về BPNC, tuy nhiên tại Điều 79 BLTTHS 2003 cũng đã quy định các căn cứ áp dụng các BPNC như sau:

Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, thì cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [32, Điều 79].

Các căn cứ này cũng đã phản ánh một phần bản chất của của các BPNC của pháp luật TTHS Việt Nam. Tuy nhiên, BPNC là biện pháp cưỡng chế tố tụng rất nghiêm khắc, đòi hỏi phải có sự phân định rõ ràng về chủ thể áp dụng, về thẩm quyền áp dụng, về đối tượng bị áp dụng, về căn cứ và mục đích áp dụng để từ đó mới có thể hiểu một cách thấu đáo và vận dụng đúng đắn vào thực tiễn.

- Giáo trình luật TTHS Việt Nam - Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, cho rằng: “BPNC là biện pháp cưỡng chế trong TTHS áp dụng với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang và người cần phải bắt trong trường hợp khẩn cấp. Nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm của họ, ngăn chặn người đó gây khó khăn cho việc điều tra truy tố, xét xử và tiếp tục phạm tội hoặc trốn” [65].

Các tài liệu nêu trên về cơ bản đã nêu được một phần khái niệm về các BPNC, tuy nhiên vẫn chưa đưa ra được một khái niệm đầy đủ, khoa học chứa đựng tất cả các yếu tố cấu thành nên BPNC thể hiện ở các dấu hiệu đặc trưng như căn cứ áp dụng, mục đích, thẩm quyền áp dụng và đối tượng bị áp dụng BPNC. Một khái niệm hoàn chỉnh, chính xác về các biện pháp ngăn chặn thì trong khái niệm đó phải hàm chứa tất cả các dấu hiệu đặc trưng của các BPNC như: căn cứ áp dụng; mục đích áp dụng; thẩm quyền áp dụng và đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn.

Từ sự phân tích trên, chúng tôi rút ra khái niệm về các biện pháp ngăn chặn như sau:

Các biện pháp ngăn chặn là các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo và người chưa bị khởi tố về hình sự để kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, cũng như không cho họ có những hành động làm cản trở hoạt động điều tra, xét xử hoặc thi hành án hình sự.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

Như vậy, với khái niệm trên chúng ta có thể thấy Biện pháp ngăn chặn có những đặc điểm sau:

Đặc điểm thứ nhất: Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế

Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm - Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội - 4

Đặc điểm thứ hai: Biện pháp ngăn chặn chỉ áp dụng đối với các đối tượng là bị can, bị cáo và người chưa bị khởi tố về hình sự (nhưng người này có dấu hiếu đã thực hiện tội phạm);

Đặc điểm thứ ba: Biện pháp ngăn chặn dùng để ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người thực hiện tội phạm tiếp tục phạm tội, ngăn chặn không cho người phạm tội có những hành động làm cản trở các hoạt động điều tra, xét xử hoặc thi hành án hình sự.

Biện pháp ngăn chặn là một chế định pháp lý quan trọng của Luật tố tụng hình sự. Trước khi Bộ luật tố tụng hình sự ra đời, các biện pháp ngăn chặn được quy định trong Luật số 103-SL/005 ngày 20.5.1957, Sắc luật số 002-SL ngày 18.6.1957 của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Sắc luật 02-SL ngày 15.3.1957 của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam bao gồm các quy định về việc bắt người, giam, tha, khám xét và được gọi là những biện pháp cưỡng chế.

Những biện pháp ngăn chặn là một trong những nhóm của biện pháp cưỡng chế. Những biện pháp ngăn chặn mang tính cưỡng chế nghiêm khắc để kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây

khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như để đảo bảo thi hành án. Những biện pháp ngăn chặn khi được áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác.

Kế thừa có chọn lọc và phát triển luật tố tụng hình sự của Nhà nước ta từ sau Cách mạng tháng tám đến nay, Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành quy định những biện pháp ngăn chặn trong Chương VI. Những biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự có nội dung tương đối rộng và cụ thể, được chia thành ba nhóm:

Nhóm 1: Gồm những biện pháp nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người có hành vi phạm tội bỏ trốn hoặc có hành vi gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án như: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.

Nhóm 2: Gồm những biện pháp bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ như khám xét người, khám xét chỗ ở, địa điểm nơi làm việc, khám nghiệm hiện trường, xem xét dấu vết trên thân thể…

Nhóm 3: Gồm những biện pháp bảo đảm sự thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án như kê biên tài sản, áp giải bị can, bị cáo, người bị kết án, dẫn giải người làm chứng, những biện pháp xử lý do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa áp dụng đối với người có hành vi phạm nội quy phiên tòa.

Trong ba nhóm biện pháp cưỡng chế trên, các biện pháp ngăn chặn nằm ở nhóm thứ nhất, được quy định cụ thể từ Điều 79 đến Điều 94 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tại Bộ luật tố tụng hình sự quy định:

Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cung như khi cần đảm bảo thi hành án, Cơ

quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [32, Điều 79].

1.2.2. Mục đích- Ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm

Để giải quyết một vụ án hình sự, các Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án phải tiến hành nhiều hành vi tố tụng khác nhau nhằm thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội; áp dụng hình phạt và buộc người đã thực hiện hành vi phạm tội phải chịu hình phạt hoặc các chế tài pháp lý khác. Quá trình này không chỉ đòi hỏi các hoạt động tích cực của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán mà còn là những hoạt động của những người tham gia tố tụng khác như: người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng... với những quyền và nghĩa vụ nhất định khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên, không phải bao giờ bị can, bị cáo hoặc những người bị nghi là thực hiện hành vi phạm tội (thuật ngữ này dùng để chỉ những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) cũng thực hiện nghĩa vụ của mình một cách tự giác; nhiều trường hợp họ cố tình trốn tránh hoặc gây cản trở cho các hoạt động tố tụng. Vì vậy, để ngăn chặn và phòng ngừa họ không thực hiện nghĩa vụ, việc pháp luật quy định và cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, những người khác theo luật định được áp dụng các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam trong những trường hợp nhất định, đối với những đối tượng nhất định là hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng to lớn trong cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm ở nước ta.

Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước thể hiện tính mệnh lệnh quyền uy trong phương

pháp điều chỉnh của luật tố tụng hình sự. Áp dụng đúng đắn các biện pháp ngăn chặn có ý nghĩa rất lớn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Cụ thể:

- Áp dụng đúng đắn biện pháp ngăn chặn sẽ đảm bảo cho quá trình giải quyết vụ án hình sự khách quan, toàn diện, không có sự oan sai xảy ra.

- Áp dụng các biện pháp ngăn chặn là đảm bảo quan trọng trong việc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Các quy định về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn là nhằm đạt được mục tiêu ngăn chặn và phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, không phải vì thế mà cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng một cách tùy tiện, thiếu căn cứ. Do đó, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành đúng trình tự, thủ tục và phải thận trọng trong hoạt động này.

Ví dụ: Khi bắt người phải có đại diện của chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đại diện cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt cư trú hoặc làm việc và phải có người láng giềng chứng kiến.

- Áp dụng biện pháp ngăn chặn góp phần bảo vệ trật tự xã hội và chế độ XHCN, bảo vệ tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân và các quan hệ xã hội khác cần được bảo vệ đồng thời trấn áp một cách kiên quyết tội phạm xảy ra vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

- Những biện pháp ngăn chặn thể hiện sự chuyên chính của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm.

Tội phạm về bản chất là hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại cho những mối quan hệ xã hội quan trọng được luật hình sự bảo vệ. Tội phạm trực tiếp hoặc gián tiếp xâm hại đến sự bền vững và ổn định của chế độ Nhà nước, chế độ kinh tế- chính trị, xã hội, đến tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân cũng như quy tắc của cuộc sống xã hội- xã hội chủ nghĩa. Do đó, Nhà nước ta coi việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm minh

nhằm tiến tới loại trừ hiện tượng phạm tội ra khỏi đời sống xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất và phải được tiến hành một cách kiên quyết, triệt để, không khoan nhượng. Việc quy định và đảm bảo thực hiện các biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật tố tụng hình sự là biểu hiện cụ thể của quan điểm đó của Nhà nước.

Để giải quyết một vụ án hình sự, các Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án phải tiến hành nhiều hành vi tố tụng khác nhau nhằm thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội; áp dụng hình phạt và buộc người đã thực hiện hành vi phạm tội phải chịu hình phạt hoặc các chế tài pháp lý khác. Quá trình này không chỉ đòi hỏi các hoạt động tích cực của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán mà còn là những hoạt động của những người tham gia tố tụng khác như: người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng... với những quyền và nghĩa vụ nhất định khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên, không phải bao giờ bị can, bị cáo hoặc những người bị nghi là thực hiện hành vi phạm tội (thuật ngữ này dùng để chỉ những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) cũng thực hiện nghĩa vụ của mình một cách tự giác; nhiều trường hợp họ cố tình trốn tránh hoặc gây cản trở cho các hoạt động tố tụng. Vì vậy, để ngăn chặn và phòng ngừa họ không thực hiện nghĩa vụ, việc pháp luật quy định và cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, những người khác theo luật định được áp dụng các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam trong những trường hợp nhất định, đối với những đối tượng nhất định là hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng to lớn trong cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm ở nước ta.

BLTTHS cho phép khi cần thiết Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án được áp dụng BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam và kịp thời thay đổi hoặc hủy bỏ các BPNC đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa.

Tinh thần đó được thể hiện ở sự quy định chặt chẽ về căn cứ, thẩm quyền ra lệnh, thời hạn áp dụng cũng như chế độ đối xử đối với người bị áp dụng. Khi đã hết thời hạn tạm giữ, tạm giam thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, tạm giam hoặc xét cần thiết thì áp dụng BPNC khác.

Đối với người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử BLTTHS đều quy định việc trả lại tự do hoặc thay đổi bằng BPNC khác nếu thấy rằng những việc đó không cần thiết nữa.

Mọi công dân căn cứ vào quy định của pháp luật về việc bắt, tạm giữ, tạm giam sẽ kiểm tra được tính đúng đắn của việc áp dụng các BPNC này, qua đó bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của mình.

Các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam không chỉ thể hiện tính cưỡng chế của Nhà nước đối với người có hành vi xâm hại các quyền của công dân mà còn là một phương tiện hữu hiệu để bảo vệ các quyền đó khi nó có nguy cơ bị xâm hại hoặc đang bị xâm hại. Các BPNC đó tuy hạn chế một số quyền của công dân đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người bị nghi là thực hiện hành vi phạm tội, nhưng mặt khác lại bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các công dân khác.

Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân nên những hoạt động của Nhà nước không nhằm mục đích nào khác là phục vụ quyền lợi của nhân dân lao động. Bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa là một chế độ dân chủ trong đó các quyền của công dân được tôn trọng, pháp luật bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Pháp luật XHCN không cho phép một hành vi trái pháp luật nào xâm phạm đến các quyền và lợi ích của công dân dù đó là hành vi của cơ quan nhà nước hay những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Nghiêm chỉnh và triệt để tuân thủ các quy định về bắt, tạm giữ, tạm giam là nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng. Các cơ quan này phải hoạt

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 01/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí