Căn Cứ Áp Dụng Biện Pháp Ngăn Chặn Trong Giai Đoạn Xét Xử Sơ Thẩm Áp Dụng Các Biện Pháp Ngăn Chặn Là Cần Thiết Trong Quá Trình Giải Quyết

động theo đúng nhiệm vụ, quyền hạn và thủ tục do pháp luật quy định. Cơ quan tiến hành tố tụng không những tự mình phải tuân theo các quy định của BLTTHS mà còn phải kịp thời ngăn chặn mọi vi phạm pháp luật của những người tiến hành tố tụng. Mọi hành vi trái với quy định của pháp luật về việc bắt, tạm giữ, tạm giam đều bị xử lý nghiêm khắc, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 119 BLHS về tội bắt, giữ, giam người trái pháp luật.

Quy định về các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam còn thể hiện tính nhân đạo ở các quy định về việc bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên hay tại BLTTHS: "Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang thời kỳ nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ trường hợp đặc biệt" [32, Điều 88, Khoản 2].

Bộ luật còn quy định việc chăm lo người thân thích và bảo quản tài sản của người bị tạm giam, tạm giữ:

Khi người bị tạm giam, tạm giữ có con chưa thành niên dưới mười bốn tuổi hoặc có người thân thích là người tàn tật, già yếu không có người chăm sóc, thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho người thân thích chăm nom. Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam không có người thân thích thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho chính quyền sở tại chăm nom.

Tại BLTTHS quy định: “Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam có nhà hoặc tài sản khác mà không có người chăm nom, bảo quản thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam phải áp dụng những biện pháp bảo quản thích đáng” [32, Điều 90, khoản 1, 2].

Tòa án, với vai trò là cơ quan duy nhất có quyền đưa ra phán quyết đối với người bị truy tố về tội danh và hình phạt tùy theo mức độ hành vi đã phạm tội, do vậy việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với các bị cáo có ý nghĩa hết

sức đặc biệt. Đối với các cơ quan điều tra, khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn còn phụ thuộc vào sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp, và khi cơ quan điều tra và cơ quan truy tố áp dụng các biện pháp ngăn chặn thì cả đều có thể bị Tòa án sau khi xem xét hồ sơ vụ án có thể thay đổi việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn mà không cần có sự phê chuẩn của bất kỳ cơ quan nào, việc thay đổi áp dụng các biện pháp ngăn chặn này cũng không bị bất kỳ cơ quan nào có thể thay đổi lại. Như vậy, vai trò của Tòa án trong giai đoạn xét xử (sơ thẩm hay phúc thẩm) là rất lớn, rất quan trọng và cần phát huy trong mỗi vụ án riêng biệt để đảm bảo mỗi vụ án, mỗi bị cáo khi được đưa ra xét xử vừa được đảm bảo công bằng, vừa mang tính giáo dục cao đối bị cáo cũng như cộng đồng.

Tuy nhiên, trong thực tế việc Tòa án thay đổi các biện pháp ngăn chặn đối với các bị cáo là rất hạn chế, mà chủ yếu Tòa án chỉ tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn mà cơ quan truy tố trước đó đã sử dụng, trong khi đó căn cứ vào mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân của bị cáo và những diễn biến thực tế Tòa án có thể áp dụng để thay đổi áp dụng biện pháp ngăn chặn nặng hơn hoặc nhẹ hơn đối với bị cáo.

Ví dụ: Bị cáo Nguyễn Văn A, sinh năm 1978, trú tại số 9 ngách 2 Định Công, Hoàng Mai, Hà Nội; bị truy tố về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 BLHS; sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án Thẩm phán xét thấy bị cáo khai nhận hành vi phạm tội, số tiền chiếm đoạt 15 triệu đồng đã được khắc phục cho người bị hại, lần đầu phạm tội, có nơi cư trú rõ. Trong trường hợp này có thể xem xét áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo, tuy nhiên Thẩm phán đã không áp dụng BPNC này đối với bị cáo mà vẫn áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị cáo. Việc không thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo trong trường hợp này là có phần nghiêm khắc đối với bị cáo.

Trong trường hợp này Tòa án không thay đổi áp dụng BPNC đối với bị cáo vì nhiều lý do, nhưng lý do cơ bản mà người Thẩm phán không dám đề xuất với người có thẩm quyền thay đổi BPNC đối với bị cáo A vì sợ bất kỳ một sơ suất nhỏ không đảm bảo được sự có mặt của bị cáo khi xét xử và đảm bảo công tác thi hành án sau khi tuyên án.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

1.2.3. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩmÁp dụng các biện pháp ngăn chặn là cần thiết trong quá trình giải quyết

vụ án hình sự. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn thực chất là sự tác động trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân. Vì vậy, khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn phải hết sức cẩn trọng, không thể có sự tùy tiện khi quyết định áp dụng các biện pháp này.

Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm - Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội - 5

Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn nhất thiết phải tuân thủ tuyệt đối các quy định của pháp luật, đảm bảo việc ra quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn có căn cứ, đúng pháp luật.

Theo Điều 79 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, để áp dụng các biện pháp ngăn chặn phải dựa vào những căn cứ sau:

1.2.3.1. Kịp thời ngăn chặn tội phạm

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, mỗi tội phạm xảy ra đều có thể gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho một hay nhiều quan hệ xã hội là khách thể được Luật hình sự bảo vệ. Việc kịp thời ngăn chặn tội phạm, không để tội phạm xảy ra hoặc không để người phạm tội có điều kiện kết thúc hành vi phạm tội của mình gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách.

Căn cứ này thường áp dụng để bắt người trong những trường hợp sau:

- Bắt người trong trường hợp khẩn cấp khi có căn cứ để cho rằng một người nào đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội

phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; khi thấy có dấu hiệu của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần thiết ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.

- Bắt người phạm tội quả tang khi phát hiện một người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt.

Như vậy, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, sau khi nhận hồ sơ từ Viện kiểm sát chuyển sang, khi thụ lý vụ án nếu xét thấy cần phải tiếp tục giam người phạm tội để đảm bảo việc xét xử và thi hành án, Tòa án tiếp tục ra lệnh giam đối với bị can (hoặc bị cáo) kể từ ngày thụ lý vụ án hoặc kể từ ngày hết thời hạn tạm giam của cơ quan tiến hành tố tụng trước đó (Đ88-BLTTHS).

1.2.3.2. Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động xét xử

Việc bị can, bị cáo có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án cũng như việc quản lý giám sát được bị can, bị cáo về con người cũng như hành vi của họ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xét xử. Nếu bị can, bị cáo trốn tránh hoặc có hành vi gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì việc xác định sự thật khách quan của vụ án sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, Tố tụng hình sự quy định khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử là một trong các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn.

Đối tượng để áp dụng căn cứ này thường là các bị can, bị cáo, người bị truy nã. Tuy nhiên, trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang còn áp dụng đối với người chưa bị khởi tố khi có căn cứ cho rằng họ sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, khám phá tội phạm.

Căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử được thể hiện qua việc bỏ trốn, làm giả chứng cứ hoặc tiêu hủy chứng

cứ, có sự câu kết, bàn bạc giữa những người đồng phạm với nhau trốn tránh pháp luật, mua chuộc, đe dọa, khống chế người làm chứng, người bị hại…

1.2.3.3. Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội

Đối với bị can, bị cáo có biểu hiện tiếp tục phạm tội thì việc áp dụng biện pháp cách ly họ với xã hội hoặc hạn chế các điều kiện để họ không thể tiếp tục phạm tội là rất cần thiết.

Bộ luật tố tụng hình sự quy định khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội là căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn.

Khi áp dụng căn cứ này cần phải phân biệt với căn cứ “để kịp thời ngăn chặn tội phạm”. Mặc dù cả hai căn cứ đều nhằm ngăn chặn không để tội phạm xảy ra. Tuy nhiên, hai căn cứ này khác nhau ở chỗ mỗi căn cứ đều có đối tượng áp dụng khác nhau; căn cứ “để kịp thời ngăn chặn tội phạm” được áp dụng đối với những người chưa bị khởi tố về hình sự đối với hành vi được xác định là lý do dẫn đến việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với họ, còn để ngăn chặn việc “bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội” chỉ áp dụng đối với các bị can, bị cáo (những người đã bị khởi tố về hình sự hoặc đã bị Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử) khi có căn cứ cho rằng họ sẽ tiếp tục phạm tội.

Những căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội có thể xác định trên các phương diện sau:

- Về nhân thân bị can, bi cáo: Bị can, bị cáo có nhân thân xấu, ví dụ: bị cáo là người có ý thức chống đối giai cấp sâu sắc, những phần tử thuộc diện lưu manh, côn đồ, hung hãn… bị can, bị cáo đã có nhiều tiền án tiền sự hoặc những đối tượng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp (ví dụ: bị can, bị cáo là người chuyên sống bằng các nghề như trộm cắp, lừa đảo…).

- Về hành vi của bị can, bị cáo: bị can, bị cáo đã có những biểu hiện sẽ tiếp tục phạm tội như đe dọa trả thù người tố giác, đe dọa trả thù người bị hại, người làm chứng và đã có sự chuẩn bị công cụ, phương tiên hoặc các điều

kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm và xét thấy bị can, bị cáo có khả năng thực hiện được sự đe dọa đó.

1.2.3.4. Bảo đảm cho việc thi hành án

Thi hành án là một trong những giai đoạn quan trọng của tố tụng hình sự nhằm thực hiện các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nếu không thi hành được thì bản án, quyết định đó không có giá trị gì.

Thi hành các bản án hoặc quyết định của Tòa án có liên quan trực tiếp đến người bị kết án. Sự có mặt của người bị kết án khi bản án được thi hành là rất cần thiết, đặc biệt là đối với người bị Tòa án quyết định áp dụng hình phạt tù. Nếu người bị kết án trốn tránh hoặc có hành vi gây khó khăn thì việc thi hành án sẽ không đạt kết quả. Do vậy, Bộ luật tố tụng hình sự quy định để đảm bảo thi hành án trong các trường hợp nhất định là căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn.

Tòa án thường áp dụng căn cứ này trong một số trường hợp như:

- Đối với bị cáo không bị tạm giam nhưng Hội đồng xét xử Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hình phạt tù mà có căn cứ cho rằng nếu không hạn chế tự do của bị cáo thì bị cáo có thể bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội.

Đối với bị cáo không bị tạm giam nhưng Hội đồng xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hình phạt tù thì Hội đồng xét xử ra quyết định bắt tạm giam ngay để đảm bảo thi hành án, trừ trường hợp bị cáo có lý do để hoãn thì hành án phạt tù.

- Căn cứ hủy bỏ hay thay thế biện pháp ngăn chặn

Hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn thực chất là vấn đề mềm hóa cách xử sự trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự, nó có lợi cho đối tượng hoặc tăng tính nghiêm khắc khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn, đồng thời làm cơ sở cho việc vận dụng chính sách nhân đạo của Nhà nước.

+ Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn

Là việc các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định không tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người đang bị áp dụng một biện pháp ngăn chặn cụ thể [32].

Tại Điều 94 BLTTHS quy định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn được tiến hành trong các trường hợp sau:

Thứ nhất, khi vụ án bị đình chỉ

Khi cơ quan tiến hành tố tụng có tài liệu, chứng cứ, chứng tỏ có căn cứ quy định tại Điều 107 BLTTHS những trường hợp không khởi tố vụ án hình sự hoặc trường hợp người bị hại có đơn yêu cầu không khởi tố hoặc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại Điều 105 BLTTHS hoặc đã hết thời hạn điều tra mà vẫn không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm Điều 164 BLTTHS.

Thứ hai, khi cơ quan tiến hành tố tụng thấy việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn không còn cần thiết nữa

Là việc cơ quan tiến hành tố tụng xem xét những yêu cầu phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử như thu thập tài liệu đã đầy đủ, ý thức khai báo, thái độ thành khẩn của bị can… thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ ra quyết định hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn.

+ Thay thế biện pháp ngăn chặn

Là việc cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp ngăn chặn khác thay thế cho biện pháp ngăn chặn đang được áp dụng (Có thể ít nghiêm khắc hơn nhưng cũng có thể sẽ nghiêm khắc hơn).

Thay thế biện pháp ngăn chặn phải thỏa mãn những điều kiện sau:

Yêu cầu giải quyết vụ án.

Thái độ chấp hành của bị can, bị cáo đối với biện pháp ngăn chặn đang được áp dụng.

Đảm bảo được các điều kiện này, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ tiến hành thay thế biện pháp ngăn chặn. Cho phép cơ quan tiến hành tố tụng tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc sử dụng chiến thuật tác động lên thái độ, tâm lý, ý thức của bị can, bị cáo khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử vụ án [32, Điều 94].

1.3. Những biện pháp ngăn chặn được quy định trong giai đoạn xét xử sơ thẩm

Theo quy định tại Điều 79 BLTTHS 2003 thì các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự bao gồm: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [32].

1.3.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bắt người Bắt người là biện pháp ngăn chặn có vị trí quan trọng trong quá trình

điều tra, xử lý vụ án hình sự. Bắt là một trong những hình thức thể hiện của BPNC, có tính chất khởi đầu cho việc áp dụng các BPNC tiếp theo.

Đây là biện pháp có tính chất cưỡng chế nghiêm khắc của nhà nước, nhằm tước bỏ quyền tự do thân thể của một người và hạn chế một số quyền, lợi ích hợp pháp của họ, việc bắt nhất thiết phải tuân thủ các căn cứ, trình tự, thủ tục theo pháp luật quy định. Do vậy, việc bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự của Nhà nước ta từ trước cho đến nay luôn luôn được xây dựng theo hướng kế thừa có chọn lọc và từng bước hoàn thiện.

Bắt là BPNC nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trốn tránh pháp luật, nhằm tạo điều kiện bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi.

BLTTHS 2003 quy định về bắt người bao gồm: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người trong trường hợp khẩn cấp và bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã.

* Việc bắt bị can để tạm giam

Tại Điều 79 BLTTHS năm 2003 qui định các biện pháp và căn cứ áp

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 01/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí