Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm - Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội - 2

MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài

Các biện pháp ngăn chặn (BPNC) là những chế định vô cùng quan trọng được quy định tại BLTTHS. Việc quy định và áp dụng đúng đắn các BPNC trong thực tế hoạt động tố tụng sẽ tác động rất lớn đến việc giải quyết có hiệu quả nhiệm vụ của luật tố tụng hình sự (TTHS) là phát hiện nhanh chóng và xử lý kịp thời, công minh đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn chặn không cho tội phạm tiếp tục được thực hiện, đồng thời không làm oan người vô tội, bảo đảm được các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân.

Trải qua quá trình lịch sử lập pháp từ sau khi giành được chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, những BPNC cũng đã được Nhà nước ta quy định rải rác hoặc xen kẽ trong một số văn bản về hình sự hoặc tố tụng hình sự như các Lệnh, Sắc lệnh, Luật, Sắc luật… và các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 cũng đều có quy định về quyền cơ bản của công dân. Tuy nhiên, những chế định về BPNC chỉ được quy định chi tiết, cụ thể ở lần pháp điển hóa đầu tiên BLTTHS năm 1988 (được Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 6 năm 1988 và sau đó được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1990. 1992 và 2000) tại Chương V. Đến lần pháp điển hóa thứ 2 vào năm 2003, chế định BPNC được quy định tại Chương VI của BLTTHS. Về các BPNC và căn cứ áp dụng các BPNC, Điều 79 BLTTHS năm 2003 cơ bản vẫn giữ nguyên như quy định tại Điều 61 BLTTHS năm 1988, đó là:

Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố

tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật này có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [26].

Kế thừa và phát triển, BLTTHS năm 2003 ra đời cũng đã quy định cụ thể, chi tiết hơn về thẩm quyền của những cơ quan THTT và những người THTT trong việc áp dụng, hủy bỏ, thay thế các BPNC.

BLTTHS năm 2003 cũng đã quy định về từng BPNC và các căn cứ, thời hạn, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) và những người THTT trong việc áp dụng, hủy bỏ, thay thế đối với từng BPNC. Mặc dù BLTTHS quy định về 6 BPNC (như đã nêu trên) nhưng không phải cơ quan THTT nào cũng có thẩm quyền như nhau trong việc áp dụng, hủy bỏ, thay thế BPNC, ví như: CQĐT có quyền áp dụng tất cả các BPNC nhưng đối với biện pháp bắt (bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang có lệnh truy nã), tạm giữ, tạm giam thì tùy trường hợp phải được phê chuẩn của VKS (trong một thời hạn cụ thể nhất định). Đối với VKS thì có quyền áp dụng, phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ một số BPNC do CQĐT ban hành. Riêng đối với Tòa án thì chỉ có quyền áp dụng các BPNC sau: bắt (bắt và tạm giam để bảo đảm cho việc xét xử và thi hành án, bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án); tạm giam; cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo lĩnh; đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm mà không có quyền áp dụng biện pháp tạm giữ. Mọi quyết định áp dụng, hủy bỏ, thay thế BPNC của Tòa án (của Chánh án, Phó Chánh án; Thẩm phán là Chánh tòa, Phó Chánh tòa phúc thẩm TANDTC; HĐXX; Thẩm phán chủ tọa phiên tòa) đều không cần phê chuẩn của VKS.

Có thể nói, BPNC là một đặc thù của tố tụng hình sự. Trong đó biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam là những biện pháp có ý nghĩa rất quan trọng, là

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị - xã hội, nó tác động trực tiếp đến quyền con người, quyền tự do đi lại, quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân. Việc bị áp dụng những biện pháp đó đồng thời ảnh hưởng đến sinh mạng chính trị, danh dự, uy tín của con người và cả dư luận xã hội.

Ở mỗi giai đoạn tố tụng hình sự, việc áp dụng BPNC nào là thuộc thẩm quyền của cơ quan THTT ở giai đoạn đó. Thực tiễn xét xử cho thấy, khi hồ sơ vụ án hình sự do VKS chuyển đến, thông thường Tòa án vẫn tiếp tục áp dụng BPNC do cơ quan THTT trước đó áp dụng, ví dụ như trước đó bị can đang bị tạm giam mà tính đến ngày xét xử thời hạn tạm giam đã hết thì Tòa án ra Lệnh tạm giam, nếu trước đó bị can được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú thì Tòa án vẫn tiếp tục áp dụng biện pháp này, rất ít khi Tòa án áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.

Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm - Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội - 2

Mặc dù BLTTHS quy định về các BPNC như vậy nhưng thực tế các cơ quan THTT và đặc biệt là Tòa án rất ít khi áp dụng 2 BPNC là bảo lĩnh đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Đối với biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú thì Tòa án thường áp dụng trong trường hợp trước đó bị can, bị cáo đang được áp dụng biện pháp này hoặc Tòa án hủy bỏ biện pháp tạm giam do cơ quan THTT trước đó áp dụng và thay thế bằng biện pháp này.

Về thẩm quyền áp dụng BPNC của Tòa án, các biện pháp bắt và tạm giam (để bảo đảm cho việc xét xử và thi hành án), tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là các biện pháp được áp dụng ở giai đoạn chuẩn bị xét xử. Tại phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa cũng có thể quyết định bắt giữ đối với người gây rối trật tự tại phiên tòa (nhưng đây là chỉ là biện pháp xử lý hành chính trong tố tụng hình sự) hoặc trong trường hợp người có hành vi hành hung người khác tại phiên tòa đến mức cấu thành tội phạm thì thực hiện việc bắt người phạm pháp quả tang theo quy định của Điều 82 BLTTHS. Riêng đối với biện pháp bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án là do HĐXX quyết định.

Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm xây dựng một nền tư pháp lành mạnh, mang bản chất nhân dân, hoạt động thực sự có hiệu quả. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị "về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới"; Nghị quyết số 48 - NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị "về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020" xác định: "Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp" [3]. Và tiếp đó, Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị "về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" cũng đã khẳng định:

…, xác định tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm;… Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [4].

Như vậy, Đảng và Nhà nước đã xác định vai trò, vị trí rất quan trọng của Tòa án trong tiến trình cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Và thực tiễn xét xử ở giai đoạn sơ thẩm cũng cho thấy, rất ít khi Tòa án áp dụng biện pháp bắt tạm giam đối với bị can, bị cáo đang được tại ngoại. Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải thực sự cần thiết và tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật, nếu không thực sự ảnh hưởng đến việc xét xử và thi hành án thì không cần bắt tạm giam. Trong trường hợp bị cáo bị xử phạt tù thì sau khi bản án có hiệu lực pháp luật sẽ bắt bị cáo chấp hành hình phạt trong trại giam (vì chế độ giam giữ đối với người chấp hành hình phạt tù khác với chế độ tạm giam). Mặt khác, trong quá trình

chuẩn bị xét xử đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giam, qua nghiên cứu hồ sơ, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam (do bị cáo có thể được hưởng chế định án treo theo quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự hoặc có thể bị xử phạt không phải là hình phạt tù) thì Tòa án có thể quyết định hủy bỏ biện pháp tạm giam và thay thế bằng một biện pháp ngăn chặn khác mà không nhất thiết phải đợi xét xử để trả tự do cho bị cáo (mặc dù thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt nhưng như vậy cũng không có lợi cho bị cáo).

Tuy nhiên, đối với 2 BPNC là bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm thì gần như không được các cơ quan THTT áp dụng. Các cơ quan THTT thường "ngại" khi áp dụng 2 biện pháp này, có thể một phần là do chưa có sự hướng dẫn cụ thể, chi tiết từ các cơ quan có thẩm quyền. Đây là 2 BPNC có thể được áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam và có thể nói đây là 2 biện pháp ít nghiêm khắc hơn tạm giam, được áp dụng trong trường hợp không cần thiết phải tạm giam, nhưng thấy cần phải ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan THTT.

Trong xu thế phát triển chung của thế giới cũng như việc thực hiện tinh thần chỉ đạo của Đảng, Tòa án cần phát huy hơn nữa vai trò và vị trí của mình trong công cuộc cải cách tư pháp, đặc biệt là cần chủ động, mạnh dạn trong việc áp dụng các BPNC không phải là tạm giam, nhất là đối với những tội phạm về kinh tế hoặc liên quan đến vấn đề bồi thường mà bị can, bị cáo đã bồi thường thiệt hại, sửa chữa, khắc phục hậu quả.

Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: "Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm - lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội" làm Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học với mong muốn cố gắng nghiên cứu một cách tổng thể về các BPNC do Tòa án áp dụng trong

giai đoạn xét xử sơ thẩm được quy định tại BLTTHS hiện hành, từ đó đưa ra những đề xuất nhằm khắc phục những thiếu sót, nhược điểm trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật, góp phần nâng cao hơn nữa tính hiệu quả, tính thực tiễn của vấn đề này để phục vụ tốt hơn nữa cho các hoạt động tư pháp hình sự ở Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu

Các BPNC là những chế định rất quan trọng trong BLTTHS. Về các BPNC được quy định trong BLTTHS năm 1988 và sau này là BLTTHS năm 2003, đã có rất nhiều giáo trình giảng dạy ở bậc đại học, cao đẳng như Trường Đại học Luật Hà Nội, khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, khoa Luật của các học viện như Học viện Cảnh sát, Học viện An ninh, Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội, Học viện Tư pháp đã đề cập, nghiên cứu về các BPNC, không những thế các BPNC còn là đối tượng nghiên cứu của một số tài liệu chuyên khảo hoặc bình luận như: "Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự" (Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp - 1990, 1992); "Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự" (Võ Khánh Vinh- chủ biên, Nxb Công an nhân dân, 2004); "Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự" (Nxb Chính trị quốc gia, 1994) của Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật; "Những điều cần biết về bắt người, tạm giữ, tạm giam đúng pháp luật" (Nxb Chính trị quốc gia, 1993) của Phạm Thanh Bình - Nguyễn Vạn Nguyên; "Các biện pháp ngăn chặn và những vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng" (Nxb Công an nhân dân, 1995) của Nguyễn Vạn Nguyên; các bài viết của các tác giả Nguyễn Vạn Nguyên, Mai Bộ, Phạm Thanh Bình, Nguyễn Văn Điệp, Vũ Gia Lâm, Nguyễn Nông, Vũ Tiến Trí... đăng trên các tạp chí, đặc san chuyên ngành, và các BPNC còn là đối tượng nghiên cứu để hướng dẫn áp dụng pháp luật vào thực tiễn như các thông tư liên ngành, đơn ngành, các chỉ thị, công văn hướng dẫn của các cơ quan Công an, VKS, Tòa án, Bộ Tư pháp, Nghị quyết của Hội đồng

thẩm phán TANDTC v.v... Tuy nhiên, các bài viết, sách… đó hầu hết chỉ đề cập chủ yếu đến các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam hoặc các BPNC nhưng do CQĐT, VKS áp dụng ở giai đoạn trước hoặc sau khi khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can. Cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, đầy đủ, toàn diện về đề tài "BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm-lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội".

3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là đưa ra các luận giải khoa học và một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao vị trí, vai trò, hiệu quả áp dụng của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với việc áp dụng, hủy bỏ, thay thế các BPNC trong tố tụng hình sự Việt Nam nói chung và nhất là trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Qua đó, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách Tư pháp và hoàn thiện pháp luật của nước ta giai đoạn từ nay đến năm 2020, bảo đảm quyền dân chủ của công dân theo đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Với mục đích nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về những BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội, luận văn tập trung vào những vấn đề sau:

- Khái quát các vấn đề lý luận cơ bản về các BPNC trong TTHS Việt Nam. Trong đó nghiên cứu sơ lược quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về các BPNC; nghiên cứu và phân tích pháp luật thực định về các BPNC, từ đó đưa ra các khái niệm về các BPNC nói chung và các khái niệm về từng BPNC nói riêng.

- Nghiên cứu thực trạng áp dụng các BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội từ khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực cho đến hết năm 2012; Tham khảo việc áp dụng BPNC trong pháp luật tố tụng hình sự ở một số nước trên thế giới, tìm hiểu nguyên nhân của những vướng mắc, tồn tại, bất cập giữa các quy định luật và thực tiễn.

- Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao tính hiệu quả trong việc áp dụng, hủy bỏ, thay thế BPNC của Tòa án trên địa bàn thành phố Hà Nội..

3.3. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thẩm quyền áp dụng, đối tượng áp dụng, thời hạn áp dụng, thủ tục áp dụng (kể cả hủy bỏ hoặc thay thế) các BPNC của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội, trong đó luận văn tập trung nghiên cứu nhiều hơn về những điểm bất cập, vướng mắc trong việc quy định và áp dụng các BPNC.

3.4. Phạm vi và thời gian nghiên cứu

BPNC là những chế định lớn và phức tạp trong luật TTHS, vì vậy trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ khó có thể nghiên cứu và giải quyết hết mọi vấn đề. Vì vậy, luận văn chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu nội dung của các quy định về thẩm quyền, đối tượng, thời hạn, thủ tục áp dụng các BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội với thực trạng áp dụng chúng, nghiên cứu nguyên nhân của những bất cập, vướng mắc trong quá trình áp dụng lý luận vào thực tiễn, từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định về các BPNC do Tòa án áp dụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.

Về thời gian, luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội từ khi BLTTHS có hiệu lực đến hết năm 2012.

4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu

- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật;

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/11/2023