Chương Trình Phát Triển Vùng Biên Của Trung Quốc - Chiến Lược “Hưng Biên Phú Dân”

Đại hội VI (1986) của Đảng đã đánh dấu một bước căn bản trong sự đổi mới tư duy và đã đưa ra những tư tưởng và quan điểm mới trong việc hoạch định đường lối phát triển kinh tế. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN được coi là mô hình kinh tế thích hợp cho nước ta trong quá trình phát triển dài hạn. Một nền kinh tế như vậy tất yếu phải là một nền kinh tế mở, đảm bảo sự giao lưu thông suốt trong nước và hội nhập nhanh chóng với nền kinh tế khu vực châu Á và thế giới. Điểm quan trọng nhất trong đường lối kinh tế đối ngoại mới là “Chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau”. Một số chính sách cụ thể theo định hướng nói trên đã được ban hành và thực hiện. Cũng trong Đại hội VI (1986), Việt Nam đã tỏ rò thiện chí sẵn sàng đàm phán, bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, vì hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới.

Sớm nhận biết xu thế chung của quan hệ hai nước nên từ năm 1988, Ban Bí thư khóa VI đã ra Thông báo số 118 cho phép nhân dân các xã vùng biên qua lại thăm thân và được phép mua một số mặt hàng thiết yếu từ phía Trung Quốc để phục vụ sản xuất và tiêu dùng của nhân dân địa phương. Cũng thời gian đó, hàng hóa Trung Quốc đã bắt đầu vào Việt Nam bằng con đường không chính thức ngày càng nhiều. Hàng nhập lậu được bốc vác qua đường mòn biên giới như Khơ Đa, Mốc 16, Tân Thanh (huyện Văn Lãng) ngày càng nhiều.

Tình hình quốc tế và Khu vực đầu những năm 90 có những thay đổi sâu sắc. Sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991 đã đánh dấu sự kết thúc của Chiến tranh lạnh. Từ đây, thế giới bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn của Quốc tế hóa và Khu vực hóa. Hòa bình và phát triển đã trở thành trào lưu chính của thời đại. Việt Nam và Trung Quốc nằm trong khu vực ổn định nhất. Xung quanh khu vực này, nhiều tam giác tăng trưởng ở Châu Á - Thái Bình Dương đã hình thành như Singapore - Malaysia - Indonesia...Mối quan hệ Việt - Trung không thể tránh khỏi xu thế này, tình hình căng thẳng sau chiến tranh

biên giới không còn thích hợp cho sự phát triển kinh tế của hai quốc gia. Thêm vào đó, một trong những ưu tiên trong chính sách kinh tế đối ngoại của Trung Quốc là xây dựng các vành đai mở, tạo ra các thị trường chung trên tuyến biên giới đất liền. Vì vậy, khu vực biên giới được hưởng nhiều chính sách ưu đãi đặc biệt.

Nhân dân hai bên vùng biên giới đã có mối quan hệ lâu đời, mật thiết. Khi chiến tranh biên giới xảy ra, các mối quan hệ tình cảm này cũng bị gián đoạn. Do đó họ cũng mong mở cửa biên giới để họ có thể qua lại thăm thân. Vì thế, Ngày 7/11/1991, Hiệp định thương mại giữa hai nước đã được ký kết cùng các Hiệp định thanh toán, Hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc trên vùng biên giới, đã tạo cơ sở pháp lý để từng bước triển khai quan hệ buôn bán giữa hai quốc gia. Theo đó, quan hệ bình thường hóa được đánh dấu bằng chuyến thăm của Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam do Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Vò Văn Kiệt vào 5/11/1991. Với tuyên bố chung được thông qua tại cuộc viếng thăm đã khẳng định hai nước sẽ phát triển quan hệ láng giềng thân thiện trên cơ sở 5 nguyên tắc: “Tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi và cùng tồn tại hòa bình”. Hai nước nhất trí thúc đẩy sự hợp tác trong lĩnh vực kinh tế nhằm đưa quan hệ kinh tế lên một trình độ phát triển mới.

Sau khi quan hệ hai nước được bình thường hóa từ năm 1991, biên mậu Việt - Trung được phục hồi và phát triển. Trên cơ bản, các cửa khẩu giữa hai nước đã và đang đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại. Dân cư hai bên có thể buôn bán tự phát với nhau tạo nên môi trường trao đổi và thương mại sôi động. Mở cửa biên giới là một nguyên nhân rất quan trọng tác động đến sự phát triển kinh tế của tỉnh Lạng Sơn nói chung cũng như trong sự chuyển đổi sinh kế tộc người, tạo thêm công ăn việc làm cho cư dân vùng biên. Người Tày ở thôn Bản Thẩu, xã Tân Thanh

là một minh chứng cụ thể của sự năng động vươn lên và thích ứng với sinh kế mới ở vùng biên giới.

4.1.3. Sự thành lập Khu kinh tế cửa khẩu Tân Thanh

Khu kinh tế cửa khẩu đầu tiên được xây dựng từ năm 1996 nhưng cho đến năm 1998 khái niệm “Khu Kinh tế cửa khẩu” mới chính thức được sử dụng một cách rộng rãi. Khái niệm “Khu kinh tế cửa khẩu” được giải thích là Khu kinh tế được hình thành ở khu vực biên giới đất liền có cửa khẩu quốc tế hoặc cửa khẩu chính và được thành lập theo các điều kiện, trình tự, thủ tục quy định tại Nghị định số 29/2008/NĐ-CP (Quyết định số 33/2009/QĐ-TTg ngày 02 tháng 3 năm 2009).

Khu kinh tế cửa khẩu được hình thành trên cơ sở một loạt các điều kiện tự nhiên và xã hội như vị trí địa lý khu vực biên giới Việt - Trung thuận lợi cho giao lưu kinh tế, môi trường chính trị ở các nước trong khu vực đặc biệt là quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc, chính sách kinh tế đối ngoại rộng mở của hai nước và áp lực trong cạnh tranh kinh tế quốc tế. Hơn nữa, các dân tộc sinh sống ở khu vực biên giới có thành phần rất đa dạng và đặc biệt có những tương đồng về kinh tế, văn hóa, xã hội với các dân tộc ở bên kia biên giới. Đó cũng là một cơ sở xã hội thuận lợi để tiến hành các chính sách phát triển kinh tế, tăng cường giao lưu, hợp tác giữa hai khu vực.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.

Ngày 18 tháng 9 năm 1996 Thủ tướng chính phủ ban hành quyết định 675/1996/QĐ-TTg về việc áp dụng thí điểm một số cơ chế chính sách tại khu vực cửa khẩu Móng Cái. Tính đến tháng 1 năm 1999, có thêm 8 Khu KTCK được áp dụng thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Lào Cai, Kiên Giang, Cao Bằng, Hà Tĩnh, Tây Ninh, Quảng Trị, Kon Tum. Các khu kinh tế cửa khẩu ở Việt Nam được thành lập đã tạo nên những trung tâm kinh tế thương mại dọc biên giới Việt - Trung và được coi là lực đẩy để từ đó làm tăng nhanh sự phát triển kinh tế xã hội ở khu vực miền núi biên giới, đưa đến sự phát triển ngang bằng giữa đồng bằng và miền núi, giữa khu vực trung tâm và biên giới.

Quá trình bình thường hóa trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc cùng với quá trình cải cách mở cửa ở hai nước đã khiến cho vùng biên giới vốn là khu vực quân sự ác liệt đã trở thành một “điểm nóng” mà cả hai nước đều không muốn bỏ qua trong việc đẩy mạnh phát triển kinh tế. Đồng thời cũng thực thi chính sách “biên giới mềm” để giữ vững sự ổn định ở vùng biên và mở cánh cửa để đi ra thế giới.

Biến đổi sinh kế của người Tày ở biên giới tỉnh Lạng Sơn từ đổi mới 1986 đến nay nghiên cứu trường hợp thôn bản thẩu, xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn - 12

Lạng Sơn là tỉnh biên giới phía Bắc, có tuyến giao thông quan trọng như Quốc lộ 1A, 1B, 4A, 4B, 31, 279 và tuyến đường sắt liên vận quốc tế Việt - Trung, có đường biên giới với Trung Quốc dài 253 km, gồm 2 cửa khẩu quốc tế (cửa khẩu Hữu Nghị; cửa khẩu Đồng Đăng) và hai cửa khẩu quốc gia (cửa khẩu Tân Thanh, cửa khẩu Chi Ma), 7 cặp chợ biên giới, rất thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế với Trung Quốc. Ngay từ những năm đầu mở cửa buôn bán qua biên giới Việt - Trung (1991), Tân Thanh đã được coi là một trong những cửa khẩu quan trọng nhất của tỉnh Lạng Sơn trong hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu, du lịch, dịch vụ. Đối diện khu cửa khẩu Tân Thanh là khu vực mậu dịch biên giới Pò Chài (huyện Bằng Tường, Khu tự trị Quảng Tây, Trung Quốc) đã được phía bạn đầu tư tương đối hoàn chỉnh. Do đó đã góp phần tạo cho Tân Thanh - Pò Chài trở thành một khu vực có hoạt động biên mậu đa dạng, phong phú.

Cơ sở hạ tầng

Khu kinh tế cửa khẩu Tân Thanh (thuộc xã Tân Thanh), được thành lập vào năm 1994. Cho đến nay đã có tất cả 4 Trung tâm thương mại và 2 khu chợ đó là Trung tâm thương mại Hồng Kông, Trung tâm thương mại Việt - Trung, Trung tâm thương mại Thế giới phụ nữ, Trung tâm thương mại Sài Gòn; Chợ Hữu Nghị; Chợ cửa khẩu Tân Thanh. Những trung tâm thương mại và khu chợ này bao gồm 3000 gian hàng của người Việt Nam và Trung Quốc, được xây cất khang trang tạo nên vẻ sầm uất cho một góc vùng biên. Bên cạnh đó còn có 3 khách sạn, 1 bưu điện, 2 bãi đỗ xe, các Ngân

hàng như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank), Ngân hàng Đầu tư và phát triển tỉnh Lạng Sơn (BIDV). Tất cả những công trình này được xây dựng trong khu vực rộng hơn 10 ha. Để xây dựng Khu kinh tế cửa khẩu, các công trình cơ sở hạ tầng, đặc biệt là điện, đường, trường, trạm đã được đầu tư đồng bộ, đặc biệt là đường giao thông đã đảm bảo cho việc đi lại và lưu thông, vận chuyển hàng hóa. Giao thông là một yếu tố rất quan trọng đối với đời sống của đồng bào dân tộc ở miền núi và ảnh hưởng lớn tới sinh kế của tộc người. Bản Thẩu là thôn cách khu vực cửa khẩu Tân Thanh hơn 1 km, đường giao thông qua thôn đã trở thành con đường chính phục vụ cho việc lưu chuyển hàng hóa hàng ngày. Ngoài ra, xã còn xây dựng các con đường liên thôn khác như đường Bản Thẩu - Nà Tồng dài 2,5 km; đường Bản Thẩu đến Bản Đuốc dài 3,4 km. Việc đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng các tuyến đường này đã giúp cho các mặt hàng nông - lâm thổ sản có nhiều thị trường tiêu thụ hơn. Hệ thống đường giao thông này còn tạo điều kiện cho đồng bào Tày ở thôn Bản Thẩu có nhiều cơ hội hơn trong tiếp cận thị trường, tiếp nhận những hoạt động sinh kế mới.

Chợ biên giới

Chợ vừa là nơi giao lưu, buôn bán, trao đổi hàng hóa, mặt khác nó cũng là hoạt động sinh kế của con người. Những gì đem ra chợ bán đều trở thành hàng hóa, giá trị thu được là tiền mặt - nguồn vốn giúp cải thiện đời sống con người. Chợ cũng luôn đóng vai trò là nguồn lực dịch vụ, thông qua đó các mối quan hệ xã hội được xác lập, cách thức làm ăn, tìm kiếm cơ hội, sinh kế được chia sẻ. Điều đó có lẽ đặc biệt hơn với chợ vùng biên, trong đó có chợ Tân Thanh.

Qua phỏng vấn người dân thôn Bản Thẩu thì được biết khu chợ đầu tiên được xây dựng từ năm 1998 - 1999, khoảng cách từ thôn đến chợ chỉ tầm 1 km. Những năm sau, chợ được xây dựng thêm các Trung tâm thương mại và quy hoạch được mở rộng hơn nên đã thu hút hầu hết cư dân trong thôn đến làm ăn, trao đổi mua bán, làm dịch vụ. Bên cạnh đó còn thu hút một lượng lớn

cư dân ở trong tỉnh cũng như các tỉnh khác đến làm ăn. Khi xây dựng Khu chợ này, Ban Quản lý Thương mại Tân Thanh cũng đã dành cho mỗi hộ gia đình trong thôn Bản Thẩu một lô đất để làm ki ốt mở cửa hàng (do Nhà nước thu hồi đất của thôn để xây dựng Khu KTCK). Kể từ khi đó, sinh kế của đồng bào Tày đã có sự chuyển hướng cơ bản, vốn là những người nông dân quen với “con trâu, cái cày” thì giờ đây họ trở thành những người làm nghề buôn bán, tiếp cận, nhạy bén với thương trường.

Việc xây dựng Chợ cửa khẩu Tân Thanh cũng thu hút đồng bào Tày trong thôn Bản Thẩu có cơ hội đi tìm kiếm việc làm mới ngoài nông nghiệp như xin làm bảo vệ tại chợ, đi chở hàng hóa cho các chủ hàng. Bên cạnh đó họ còn xin đi bán hàng thuê cho các chủ hàng người Việt ở dưới xuôi lên và các chủ hàng người Trung Quốc (như đã nói trong chương 3).

Do xây dựng Khu kinh tế cửa khẩu Tân Thanh nên hàng hóa XNK giữa hai nước ngày một gia tăng. Những năm gần đây, việc vận chuyển hàng hóa xuất khẩu như dưa hấu, thanh long, chuối...luôn bị ùn tắc kéo dài từ khu vực Pác Luống đến cửa khẩu Tân Thanh, có hôm từ 500 - 600 xe/ngày. Hàng hóa qua cửa khẩu nhiều và liên tục như vậy cũng là nhân tố tạo điều kiện cho người dân có thêm công ăn việc làm như bốc vác hàng thuê từ xe của phía Việt Nam sang xe của phía Trung Quốc.

Vấn đề thu hổi đất giải phóng mặt bằng để xây dựng Khu kinh tế cửa

khẩu

Từ khi có quyết định mở cửa khẩu của Chính phủ trên địa bàn, mỗi

năm xã Tân Thanh đã thu hút hàng vạn lượt người từ khắp mọi miền đất nước đến tham quan, giao lưu, trao đổi mua bán hàng hoá. Chỉ tính riêng số người từ các tỉnh khác đổ về tham gia các hoạt động kinh doanh, dịch vụ được cấp sổ tạm trú là 2.066 người, cấp sổ lưu trú là 1.298 người, đông hơn khoảng 2,6 lần so với dân số toàn xã. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển về kinh tế, văn hoá, xã hội, vấn đề đất đai và việc làm của bà con hậu thu hồi đất đang trở

thành vấn đề “thời sự”. Theo quy hoạch khu KTCK Tân Thanh, có 2 thôn bị ảnh hưởng do thu hồi đất là thôn Bản Thẩu và thôn Nà Lầu. Do thực hiện khá tốt công tác tuyên truyền, vận động, đến nay hầu hết các hộ dân trong khu vực bị ảnh hưởng đều nhận thức được tầm quan trọng và lợi ích của việc xây dựng và phát triển khu KTCK đối với sự phát triển chung của xã hội nên đều đồng tình ủng hộ. Tuy vậy, vấn đề sinh kế của đồng bào Tày ở thôn Bản Thẩu sau thu hồi đất gặp khá nhiều khó khăn.

Qua phỏng vấn ông Hoàng Văn Địa - Chủ tịch xã Tân Thanh thì được biết, mặc dù có khu KTCK với các hoạt động thương mại, dịch vụ sôi động, nhưng cũng như bao xã khác, Tân Thanh cũng có trên 90% dân số sinh sống nhờ canh tác nông - lâm nghiệp. Khi thu hồi đất để giải phóng mặt bằng xây dựng KTCK, có nhiều hộ dân bị mất hết hoặc mất gần hết đất canh tác. Do vậy, mối quan tâm lớn nhất của người dân ở đây là sẽ làm gì để sinh sống, khi đất đai, tư liệu sản xuất của bà con đã bị mất.

Nghiên cứu này ứng dụng lý thuyết về Khung sinh kế bền vững DFID để phân tích, tiếp cận đất đai, việc thu hồi quyền sử dụng đất của Nhà nước và tác động của nó đối với sinh kế của người Tày ở thôn Bản Thẩu, xã Tân Thanh. Khung sinh kế bền vững coi đất đai là một tài sản tự nhiên rất quan trọng đối với sinh kế nông thôn. Quyền đất đai đóng một vị trí quan trọng về nhiều mặt và tạo cơ sở để người dân tiếp cận các loại tài sản khác và những sự lựa chọn sinh kế thay thế. Theo tác giả Nguyễn Văn Sửu thì ở nước ta quyền sử dụng đất hàm chứa nhiều ý nghĩa quan trọng, đất đai vừa là một phương tiện sản xuất, một nguồn thu nhập và là một loại tài sản có giá trị [40. tr. 2]. Trong cuốn sách Phân cấp trong quản lý tài nguyên rừng và sinh kế người dân, Tác giả Quan (1998) có nhấn mạnh đến an ninh hưởng dụng đất và tài nguyên thiên nhiên làm tăng tính linh hoạt của sinh kế, giúp bảo vệ nhân dân khỏi các tác động xấu gây ra bởi thời tiết, giá cả không ổn định và những khó khăn khác. Tiếp cận với đất đai có thể ảnh hưởng đến triển vọng phát triển

kinh tế và lợi ích cho người nghèo. Việc đảm bảo công bằng trong an ninh hưởng dụng đất có thể làm tăng thu nhập tích lũy và việc làm trong khu vực nông thôn. Như vậy, biến đổi trong các chế độ sở hữu đất đai sẽ là yếu tố ảnh hưởng đến an ninh sinh kế của người dân.

Trong nghiên cứu này, tôi nhận thấy rằng, việc thu hồi quyền sử dụng đất nông nghiệp của Nhà nước ở thôn Bản Thẩu đã tạo ra những tác động quan trọng về kinh tế, xã hội, văn hóa đối với người dân bị thu hồi đất để phục vụ cho việc xây dựng khu KTCK Tân Thanh. Nghĩa là toàn bộ đất nông nghiệp của thôn Bản Thẩu (chủ yếu là đất ruộng) đang bị chuyển đổi thành các loại đất phi nông nghiệp, làm cho người Tày ở đây phải chuyển đổi sinh kế truyền thống. Để ứng phó với tình hình này, trong khi chính sách của Nhà nước và của tỉnh Lạng Sơn về đào tạo nghề và việc làm còn có nhiều hạn chế, nhiều hộ gia đình người Tày trong nghiên cứu này đã dựa vào “vốn con người” (chủ yếu là sức khỏe) của mình tham gia vào các hoạt động sinh kế mới như làm thuê, bốc vác để mưu sinh. Một số bộ phận khác đã gia nhập đội ngũ buôn bán nhỏ, nhất là các mặt hàng gia dụng, lương thực thực phẩm và các dịch vụ khác.

4.1.4. Chương trình phát triển vùng biên của Trung Quốc - chiến lược “Hưng biên phú dân”

Cũng như Việt Nam, Chính phủ Trung Quốc đặc biệt coi trọng phát triển kinh tế ở vùng biên. Tuy nhiên, nếu Việt Nam xây dựng một loạt chính sách nhỏ lẻ, đôi khi chồng chéo hoặc không liên kết tạo thành một chiến lược phát triển ở vùng biên lâu dài thì Trung Quốc đã phát triển một hệ thống quan điểm có tính lý luận và thực tiễn. Từ đó xây dựng chính sách phát triển vùng biên, lấy tư tưởng “Hưng biên phú dân” làm nền tảng. “Hưng biên phú dân” ra đời đã trở thành một chương trình hành động cụ thể quan trọng nhất của chiến lược “Đại khai phá miền Tây”.

Các mục tiêu chính mà chương trình “Hưng biên phú dân” đưa ra bao gồm: tranh thủ trong khoảng thời gian 10 năm, làm cho cơ sở vật chất hạ tầng

Xem tất cả 160 trang.

Ngày đăng: 23/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí