Khái Niệm Các Tội Phạm Trong Lĩnh Vực Tài Nguyên Rừng Và Ý Nghĩa Của Việc Quy Định Các Tội Phạm Này Trong Pháp Luật Hình Sự Việt Nam

năm gần đây và thực trạng chất lượng tài nguyên rừng đang bị suy giảm ngày càng nghiêm trọng bởi sự tàn phá, hủy hoại trái pháp luật của con người.

Trước tình hình đó Nhà nước ta xác định cần phải có một “liều thuốc đặc trị” đủ mạnh để “điều trị căn bệnh này” và đó chính là biện pháp chế tài hình sự. Chỉ có biện pháp chế tài hình sự với bản chất nghiêm khắc nhất trong số các loại chế tài của pháp luật Việt Nam thì mới có thể đảm bảo tính răn đe, giáo dục phòng ngừa, các chủ thể phạm tội mới có thể chùn bước. Tuy nhiên, chế tài đó phải đủ mạnh, sử dụng đúng lúc, đúng đối tượng thì mới phát huy tác dụng đúng bản chất của chế tài hình sự.

Xuất phát từ những lý do trên, nên Nhà nước ta đã quy định một số hành vi xâm hại đến tài nguyên rừng là tội phạm và ghi nhận trong Bộ luật hình sự Việt Nam, để giáo dục phòng ngừa và răn đe trấn áp các hành vi vi phạm pháp luật nói chung, các hành vi xâm hại đến tài nguyên rừng nói riêng. Thông qua đó nhằm duy trì trật tự quản lý về bảo vệ tài nguyên rừng, góp phần cải thiện môi trường sinh thái, bảo vệ nguồn tài nguyên rừng tránh sự tàn phá nghiêm trọng bởi hành vi trái pháp luật của con người, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế quốc gia phát triển một cách toàn diện và bền vững. Đồng thời tạo thế phòng thủ chiến lược vững chắc trong lĩnh vực an ninh quốc phòng.

1.2. Khái niệm các tội phạm trong lĩnh vực tài nguyên rừng và ý nghĩa của việc quy định các tội phạm này trong pháp luật hình sự Việt Nam

1.2.1. Khái niệm các tội phạm trong lĩnh vực tài nguyên rừng

Việc bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam được Nhà nước ta quan tâm ngay từ những ngày đầu nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập (Ngày 02/9/1945). Điều này được chứng minh qua việc kể từ thời điểm đó đến nay Nhà nước đã ban hành loạt các văn bản qui phạm pháp luật nói chung, các văn bản qui phạm pháp luật hình sự về bảo vệ tài nguyên rừng nói

riêng. Tuy nhiên, để nghiên cứu chuyên sâu về các loại tội phạm này, nhằm đánh giá đúng bản chất sự nguy hiểm của nhóm tội phạm xâm hại đến tài nguyên rừng và của từng hành vi phạm tội cụ thể, từ đó chúng ta có biện pháp ngăn ngừa có hiệu quả, đòi hỏi phải có một khái niệm khoa học về các tội phạm xâm hại đến tài nguyên rừng. Thế nhưng đến thời điểm hiện nay vẫn chưa có tác giả nào đưa ra một khái niệm khoa học về các tội phạm xâm hại đến tài nguyên rừng.

Theo khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định: “Tội phạm phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội được qui định trong bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa” [6].

Như vậy, xét về mặt lý luận, tội phạm là hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, được đặc trưng bởi tính nguy hiểm cho xã hội và được qui định trong Bộ luật hình sự Việt Nam, do chủ thể là cá nhân thực hiện. Đồng thời hành vi nguy hiểm đó phải có yếu tố lỗi (lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp, hoặc vô ý do cẩu thả và lỗi vô ý do quá tự tin). Mặt khác phải do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, nghĩa là người đó phải đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đủ năng lực trách nhiệm hình sự do pháp luật qui định.

Tội phạm phải do người có đủ năng lực chủ thể thực hiện (Năng lực pháp luật và năng lực hành vi) và dù gây ra mức độ nguy hiểm như thế nào đối với xã hội thì những hành vi của chủ thể tội phạm đó đều là những hành vi cụ thể gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

Tuy có đặc điểm tương đồng, thế nhưng những hành vi phạm tội cụ thể và những tội phạm cụ thể được qui định trong pháp luật hình sự Việt Nam cũng có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau, nên nó cũng có những đặc trưng riêng biệt về bốn yếu tố cấu thành tội phạm.

Theo GS.TSKH Lê Cảm cho rằng: Tội phạm phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu bao gồm ba bình diện với năm dấu hiệu của nó là:

Bảo vệ tài nguyên rừng bằng pháp luật hình sự ở Việt Nam - 4

- Bình diện khách quan:

Tội phạm nhất thiết phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nếu hành vi đó không nguy hiểm cho xã hội thì không thể xem là tội phạm.

- Bình diện pháp lý:

Tội phạm là vi trái pháp luật hình sự. Nếu hành vi đó dù có nguy hiểm nhưng không trái pháp luật hình sự thì không thể xem là tội phạm.

- Bình diện chủ quan:

Tội phạm là hành vi do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi [7].

Để xác định một người có phạm tội hay không phạm tội, ngoài các yếu tố nêu trên, thì người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải có năng lực chủ thể trách nhiệm hình sự, nghĩa là phải đủ độ tuổi theo quy định của pháp luật (Điều 12 Bộ luật hình sự) và không bị mất năng lực hành vi. Ví dụ người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành vi; Người bị bệnh đao…

Đối với trường hợp người phạm tội do bị ép buộc và không còn cách lựa chọn nào khác ngoài việc phải gây ra một thiệt hại cho xã hội xâm hại đến khách thể được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ, thì cho dù hành vi của họ có thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, thì người đó cũng được loại trừ trách nhiệm hình sự. Hoặc đối với các trường hợp người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội thuộc trường hợp tình thế cấp thiết [Điều 16

Bộ luật hình sự] hay trường hợp phòng vệ chính đáng [Điều 15 Bộ luật hình sự] thì chủ thể đó cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 là sự thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước bằng pháp luật. Là sự thể hiện ý chí và nguyện vọng chính đáng của tuyệt đại đa số quần chúng nhân dân. Các tội phạm xâm hại đến tài nguyên rừng được qui định trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật xâm hại đến nguồn tài nguyên thiên nhiên có giá trị cao về kinh tế và có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự cân bằng của môi trường sinh thái và sự phát triển bền vững của nền kinh tế đất nước. Gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức, tập thể và quyền lợi ích hợp pháp của công dân, thông qua các hành vi xâm hại đến tài nguyên rừng được pháp luật hình sự bảo vệ.

Hiện nay, trong khoa học luật hình sự và luật kinh tế Việt Nam chưa có một công trình nghiên cứu, hay một đề tài khoa học nào đưa ra khái niệm chính thống về các tội phạm xâm hại đến tài nguyên rừng theo qui định của pháp luật hình sự Việt Nam. Còn theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành, thì các tội phạm xâm hại đến tài nguyên rừng được quy định phân tán ở ba chương, đó là:

- Chương XVI - Các tội xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế [Điều 175 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009] “Tội vi phạm quy định về khai thác và bảo vệ rừng” và Điều 176 Bộ luật hình sự “Tội vi phạm các qui định về quản lý rừng”;

- Chương XVII - Các tội phạm về môi trường [Điều 189 Bộ luật hình sự về “Tội hủy hoại rừng” và Điều 190 Bộ luật hình sự “Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quí, hiếm được ưu tiên bảo vệ”];

- Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng [Điều 240 Bộ luật hình sự “Tội vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy”].

Mặc dù các tội phạm xâm hại đến tài nguyên rừng được Nhà nước ta qui định ở ba chương riêng biệt trong Bộ luật hình sự như đã nêu trên, song hành vi của chủ thể các tội phạm này đều xâm hại đến đối tượng quan trọng đó là tài nguyên rừng, và hậu quả gây ra cho xã hội là làm suy giảm hoặc huỷ hoại nguồn tài nguyên rừng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái và trực tiếp hoặc gián tiếp gây thiệt hại đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế quốc gia.

Như vậy, các tội phạm xâm hại đến tài nguyên rừng cũng là những tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam, nên mỗi tội phạm cũng đều phải thỏa mãn đầy đủ bốn yếu tố cấu thành tội phạm (khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm). Tuy nhiên, trong cấu thành của từng tội phạm này cũng có những đặc trưng riêng của nó. Từ những cơ sở lý luận nêu trên, theo người viết, dưới góc độ khoa học, khái niệm đang nghiên cứu được định nghĩa như sau:

Các tội phạm xâm hại đến tài nguyên rừng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện, xâm hại đến các quy định của Nhà nước về bảo vệ tài nguyên rừng được quy định tại các điều 175, 176, 189, 190 và điều 240 Bộ luật hình sự (Nếu gây thiệt hại đến tài nguyên rừng).

Như vậy, các tội phạm xâm hại đến tài nguyên rừng được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam đều xâm hại đến một loại đối tượng đặc biệt quan trọng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế quốc gia và sự cân bằng của môi trường sinh thái. Trong từng tội phạm cụ thể quy định tại các điều 175, 176, 189, 190, 240 Bộ luật hình sự Việt Nam, có những dấu hiệu pháp lý đặc trưng riêng biệt cho từng loại tội mà người viết sẽ phân tích cụ thể trong Chương 2 luận văn này.

1.2.2. Ý nghĩa của việc quy định các tội phạm về lĩnh vực tài nguyên rừng trong pháp luật hình sự Việt Nam

Dù ở giai đoạn lịch sử nào thì pháp luật hình sự đều chiếm giữ vị trí quan trọng và có vai trò then chốt trong việc ổn định tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền tự do chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

Để thực hiện hiện được nhiệm vụ trên, Bộ luật hình sự Việt Nam quy định và mô tả hành vi phạm tội, tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, quy định loại và mức hình phạt cụ thể đối với từng tội phạm trong lĩnh vực tài nguyên rừng, trên cơ sở đó các cơ quan tiến hành tố tụng nghiên cứu áp dụng được thuận lợi để giải quyết các vụ, việc cụ thể đảm bảo tính khách quan, toàn diện và đúng pháp luật.

Ngoài nhiệm vụ cơ bản nêu trên, Bộ luật hình sự còn có vai trò giáo dục mọi người nâng cao sự hiểu biết và ý thức tuân theo pháp luật, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, điều này được thể hiện ở việc các quy định của Luật hình sự giúp cho mọi người biết được hành vi nào là tội phạm để tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với qui định của pháp luật.

Xuất phát từ cơ sở lý luận nêu trên, việc quy định các tội phạm về lĩnh vực tài nguyên rừng trong pháp luật hình sự Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng, bởi nó thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ tài nguyên rừng và cũng chính là bảo vệ sự phát triển bền vững của nền kinh tế đất nước. Điều này càng thể hiện rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của tài nguyên rừng đối với môi trường sống của nhân loại và sự phát triển bền vững của nền kinh tế quốc gia. Vì vậy, Nhà nước ta mới đặt ra việc bảo vệ tài nguyên rừng bằng pháp luật hình sự.

Việc qui định các tội phạm xâm hại đến tài nguyên rừng trong luật hình sự Việt Nam đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi để các cơ quan bảo vệ pháp luật áp dụng và xử lý nghiêm minh, triệt để người phạm tội, nhằm bảo vệ hiệu quả nguồn tài nguyên rừng, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nước ta phát triển ngày càng tốt hơn.

1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định về bảo vệ tài nguyên rừng trong pháp luật hình sự Việt Nam từ sau cách mạng tháng tám năm 1945 đến nay

1.3.1. Giai đoạn từ sau cách mạng tháng tám năm 1945 đến trước pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985

Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập (ngày 02/9 /1945) Nhà nước ta lúc bấy giờ chưa ban hành kịp thời Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, Nhà nước cũng đã quan tâm đến việc đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, nhằm ổn định tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ tính mạng và tài sản của Nhân dân.

Do hoàn cảnh lịch sử, nên nhiệm vụ trọng tâm lúc bấy giờ là tập trung cho việc cũng cố chính quyền cách mạng còn non trẻ vừa mới được thành lập, nên việc đấu tranh phòng, chống tội phạm tuy được quan tâm, nhưng chủ yếu ở các loại tội phạm xâm hại nền an ninh chính trị và các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác như: Các tội trong lĩnh vực an ninh quốc gia, tội giết người, cướp của, hiếp dâm, trộm cắp tài sản…

Vào thời điểm đó, tài nguyên rừng của nước ta rất phong phú, diện tích rừng tự nhiên khoảng 14.300.000 ha, độ che phủ đạt 43%. Nhu cầu sử dụng tài nguyên rừng phục vụ trong sinh hoạt đời sống của nhân dân tuy có nhu cầu, song không đáng kể so với những năm sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng (năm 1975) mà đặc biệt là sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI

(năm 1986) thời kỳ xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, pháp luật giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954 về tội phạm này chủ yếu được quy định trong các sắc luật, cụ thể như sau:

- Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/02/1946, về các tội phá hoại công sản;

- Sắc lệnh số 247/SL ngày 15/6/1946, về âm mưu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước, hợp tác xã và của nhân dân làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch Nhà nước;

- Thông tư số 1303 BCN/VN ngày 28/6/1946 của liên Bộ Nội vụ - Bộ canh nông, qui định điều chỉnh những hành vi xâm hại đến rừng; Tại thông tư này có đoạn qui định: “…Những tội phạm (chính phạm và tòng phạm) sẽ do nha Lâm chính làm biên bản đưa ra Tòa án và sẽ bị phạt tiền, phạt tù hay phải bồi thường theo thể lệ đã ấn định từ trước…” [30].

- Sắc lệnh số 142/SL ngày 21/12/1949, quy định về việc lập biên bản các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ rừng.

Đến giai đoạn năm 1955-1958, Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm 2 miền. Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, Miền Nam vẫn chìm trong khói lửa của chiến tranh. Pháp luật thời kỳ này được Đảng và Nhà nước quan tâm chú trọng, bởi đây là công cụ sắc bén không thể thiếu của chính quyền Nhân dân. Do đó, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để quản lý xã hội, trong đó có nhiều văn bản liên quan trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên rừng, cụ thể là:

- Hiến pháp năm 1959 của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa [Điều 12 và Điều 40]:

“Để bảo vệ rừng và phát triển tài nguyên phong phú của rừng, phát huy tác dụng to lớn của rừng trong việc giữ nguồn nước và điều tiết nước, giữ đất, chống xói mòn, chống cát bay, điều hòa khí hậu, hạn chế tác hại của gió,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 30/10/2023