Một Số Quy Định Của Pháp Luật Về Bảo Vệ Quyền Tự Do Kinh Doanh Mang Nặng Dấu Ấn Của Quản Lý Độc Quyền Hành Chính

chế, đặc biệt đó là khâu giải quyết với cơ quan thuế, rất nhiều trường hợp do không thể kê khai và hoàn thiện thủ tục với cơ quan thuế nên chủ doanh nghiệp đành lựa chọn phương án là "treo" doanh nghiệp, không hoạt động cũng không giải thể. Đây cũng là thực trạng khá phổ biến và chưa có biện pháp hữu hiệu nào để các cơ quan quản lý doanh nghiệp giải quyết được những vướng mắc này. Theo thống kê của các cơ quan đăng ký kinh doanh thì hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp ảo, do doanh nghiệp không thể giải thể vì có vướng mắc tại khâu thủ tục giải thể. Bởi vậy, luật doanh nghiệp cần phải được bổ sung cho phù hợp với yêu cầu trong thực tiễn.

2.2.3. Một số quy định của pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh mang nặng dấu ấn của quản lý độc quyền hành chính

Xuất phát điểm từ một nền quản lý kinh tế quan liêu bao cấp cho nên nhiều chính sách của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền tự do kinh doanh còn chịu ảnh hưởng nặng nề của tư duy quản lý hành chính, cụ thể như sau:

Thứ nhất, các sáng kiến chính sách lớn chưa hẳn đã được bắt đầu từ nhu cầu bức thiết của xã hội thông qua tiếng nói của các đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân là những đại diện cho lợi ích của các cử tri, các nhóm, các tổ chức xã hội khác. Đôi khi các chính sách đó có thể là kết quả của "tư duy nhiệm kỳ", "tư duy tăng trưởng" chạy theo thành tích, đôi khi là việc giành thuận lợi cho các cơ quan quản lý, đùn đẩy khó khăn cho người dân, doanh nghiệp hoặc nguy hiểm hơn là sự vận động của các nhóm lợi ích ngầm chi phối.

Thứ hai, các cơ quan hành chính từ Chính phủ, bộ, ngành và Ủy ban nhân dân tỉnh phải tự đề xuất các sáng kiến luật, pháp lệnh (trên 75% số lượng luật, pháp lệnh hiện hành) hoặc phải tự ban hành rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn thực hiện các luật, pháp lệnh hoặc các nghị định, nghị quyết, chỉ thị, thông tư, công văn, quyết định… "can thiệp" trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh mà thiếu một cơ chế kiểm soát, giám sát minh bạch, công khai, thường xuyên và có hiệu quả.

Thứ ba, nguy cơ bị thao túng chính sách cao hơn do các nhóm lợi ích khác nhau bắt tay với công chức, tổ chức vừa không có một cơ chế vận động công khai, giám sát chặt chẽ, cũng như không có tiêu chí để bảo vệ lợi ích công và lợi ích cộng đồng cũng như cào bằng với các nhóm lợi ích khác.

Thứ tư, tạo cơ hội cho liên kết lợi ích trong các cơ quan hành pháp (Bộ, ngành) theo kiểu tạo thuận lợi, lợi ích cho mình, đẩy khó khăn, bất lợi cho thị trường.

Thứ năm, Chính phủ (vừa với chức năng cơ quan hành chính quản lý đất nước, vừa với tư cách đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước thực hiện kinh doanh) chắc sẽ rất khó để có tiếng nói độc lập, khách quan, làm trọng tài khi có xung đột lợi ích và cuối cùng, quyền lực hành chính rất dễ bị lạm dụng, nguy cơ "tham nhũng" cao.

Nhìn từ góc độ lợi ích xã hội, có quá nhiều văn bản (quy phạm pháp luật) hoặc hình thức khác do cơ quan hành chính các cấp ban hành, nên việc đánh giá theo các tiêu chí hợp pháp, hợp lý, chi phí…là rất khó khăn do có sự hạn chế về nguồn lực, thời gian, vai trò và vị trí của các tổ chức này. Thủ tục hành chính sẽ trở thành gánh nặng cho xã hội, thị trường, đẩy chi phí hàng hóa, dịch vụ lên cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, làm mất cơ hội đầu tư, kinh doanh, giảm niềm tin vào môi trường kinh doanh. Gánh nặng của thủ tục hành chính không minh bạch còn là nguy cơ đẩy nền kinh tế theo hướng "kinh tế ngầm", chứa nhiều rủi ro, bất ổn cho Nhà nước và xã hội, phân hóa giàu nghèo gia tăng (người nghèo, doanh nghiệp nhỏ và vừa bao giờ cũng chịu thiệt hại nhiều hơn so với người giàu và doanh nghiệp lớn, vốn có lợi thế hơn trong một môi trường thiếu minh bạch).

2.2.4. Một số quy định của pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh chưa cân đối được quyền lợi cho các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Việc pháp luật chưa cân đối được quyền lợi cho các chủ thể tham gia trong một số quan hệ pháp luật thể hiện rõ ở các quy định của Luật phá sản về

quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản. Theo Luật Phá sản thì chủ nợ có bảo đảm không được quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản (Điều 13). Điều này vừa không cho phép chủ nợ có bảo đảm sử dụng cơ chế phá sản để phòng vệ trong trường hợp họ thấy cách đó an toàn và hiệu quả hơn việc yêu cầu phát mại tài sản bảo đảm. Việc Luật Phá sản năm 2004 quy định không cho phép chủ nợ có bảo đảm được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là xuất phát từ quan điểm cho rằng, đối với chủ nợ có bảo đảm thì lợi ích của họ đã được bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố của doanh nghiệp hay của người thứ ba, vì vậy, việc doanh nghiệp, hợp tác xã có bị tuyên bố phá sản hay không thì lợi ích của họ vẫn được bảo đảm. Quy định này là không hợp lý. Thủ tục phá sản là một phương thức đòi nợ đặc biệt. Việc không cho chủ nợ có bảo đảm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đã làm mất đi quyền lựa chọn phương thức đòi nợ hữu hiệu này của các chủ nợ có bảo đảm.

Bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Việt Nam - 9

Bên cạnh đó, nhằm phát hiện sớm tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp nhờ đó tòa án có thể can thiệp sớm nhằm giúp doanh nghiệp phục hồi hoạt động, pháp luật của các nước đều quy định một số chủ thể như Tòa án, Viện kiểm sát, Thanh tra chuyên ngành, tổ chức kiểm toán... trong khi thực hiện chức năng nhiệm vụ có liên quan đến doanh nghiệp, Hợp tác xã mà nhận thấy doanh nghiệp, Hợp tác xã đó đang lâm vào tình trạng phá sản thì có quyền mở thủ tục hoặc yêu cầu Tòa án mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Tuy nhiên, Luật Phá sản năm 2004 đã không quy định cho các chủ thể này có quyền nộp đơn. Những quy định này đã làm giảm áp lực từ phía các cơ quan nhà nước lên doanh nghiệp, dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp thua lỗ kéo dài những vẫn ung dung tồn tại nếu chủ doanh nghiệp hoặc chủ nợ không nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản.

Hơn nữa, chính việc chưa cân đối được lợi ích cho các chủ thể, pháp luật đã tạo ra môi trường cạnh tranh chưa lành mạnh, tồn tại sự bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Như chúng ta đã biết, vai trò chủ đạo của Doanh nghiệp nhà nước không phải xa lạ, đã được khẳng định trong lý thuyết của

nền kinh tế quản lý tập trung, từng thực hiện tại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cho đến lúc sụp đổ bởi nguyên nhân kinh tế của chính nó, còn ở ta buộc phải đổi mới bằng cách phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhưng tới nay vẫn giữ quan điểm kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, tuy nhiên nó bộc lộ quá nhiều hạn chế. Các tập đoàn kinh tế lớn, có vai trò mấu chốt được Nhà nước nắm giữ và quản lý nhằm tạo ra những "quả đấm thép" để thúc đẩy nền kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, do yếu kém trong khâu quản lý và xây dựng một mô hình chưa tương thích nên phần lớn các doanh nghiệp nhà nước, các tập đoàn làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả. Sự sụp đổ của Tập đoàn tàu thủy Việt Nam - Vinasin là minh chứng điển hình nhất cho sự thất bại của việc tạo ra những "siêu tập đoàn" bất chấp các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Trong khi đó, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là nơi tạo ra nhiều giá trị thặng dư cho xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động và đóng góp hết sức tích cho mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường thì chưa được đầu tư tương xứng với vai trò và tiềm năng của nó.

2.2.5. Quy định bảo vệ quyền tự do kinh doanh chưa đầy đủ, một số quy định chưa tương thích với pháp luật quốc tế

Sự phát triển kinh tế thị trường đã phát sinh nhiều hành vi tội phạm, đặc biệt là những loại tội phạm xâm phạm nghiêm trọng đến quyền bảo vệ tự do kinh doanh, tuy nhiên pháp luật hình sự chưa quy định những nhóm tội phạm mới này để có chế tài xử lý. Ví dụ như: tội cấp phép dự án trái pháp luật, hay trong thời gian gần đây là sự xuất hiện của loại hình dịch vụ công ty thu hồi công nợ của tư nhân. Hình thức hoạt động của loại hình này thường huy động nhiều người sử dụng băng rôn, khẩu hiệu gây áp đảo con nợ để đạt được mục đích con nợ trả tiền. Hoặc các hành vi vi phạm liên quan đến lĩnh vực công nghệ thông tin, điện tử cũng đang diễn biến phức tạp với nhiều hành vi như: truy cập và sử dụng trái phép các thông tin cá nhân của người khác, dùng thủ thuật tinh vi trộm tiền từ thẻ tín dụng cá nhân… Trên thực tế những hành vi này hiện pháp luật hình sự nước ta chưa mô hình hóa thành các loại

tội cụ thể nên dẫn đến không có chế tài để xử lý. Bởi vậy, cần phải bổ sung thêm một số loại tội phạm mới trong Bộ luật Hình sự.

Bên cạnh đó, việc thiếu những quy định pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh còn thể hiện ở việc pháp luật hiện hành tuy đã xác lập rất nhiều hình thức tài phán để giải quyết tranh chấp, nhưng chỉ có Tòa án và Trọng tài mới có được thủ tục pháp lý chặt chẽ và tương đối hoàn chỉnh. Pháp luật còn thiếu những thể chế và mô hình phù hợp để phát huy vai trò của thương lượng, hòa giải. Chẳng hạn như hình thức pháp lý của thương lượng, hòa giải là gì? Giá trị pháp lý của chúng như thế nào? Tất cả những điều nêu trên làm cho thương lượng, hòa giải còn mang nặng tính tự phát, chưa phải là sự quan tâm thực sự và chỗ dựa tin cậy của các chủ thể kinh doanh ở nước ta.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh chưa tương thích với pháp luật và tập quán quốc tế. Ở Việt Nam cũng chưa thừa nhận rộng rãi án lệ, tập quán, thông lệ thương mại là nguồn của pháp luật. Điều này gây khó khăn rất lớn khi các bên tham gia giao kết hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Bởi vậy, việc mở rộng nguồn của pháp luật, hay trong một số trường hợp cần được áp dụng án lệ, tập quán thương mại quốc tế là một trong những vấn đề cần sửa đổi của pháp luật.

2.3. NGUYÊN NHÂN CỦA HẠN CHẾ, BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH

- Chính sách pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh chưa được hoạch định thống nhất và đồng bộ.

Xuất phát từ văn hóa trọng nông, ức thương của dân tộc, nên việc thúc đẩy thương nghiệp ở nước ta luôn bị xem nhẹ, do đó kéo theo việc hệ thống pháp luật không có nhiều quy định để khuyến khích kinh doanh, trong thời gian dài pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh ở nước ta luôn bị xem nhẹ, có thể minh chứng điều này bằng cách kiếm tìm trong cổ luật rất ít các

quy định về bảo vệ quyền tự do kinh doanh, tầng lớp thương nhân bị coi là con buôn, và ít được coi trọng.

Đến trước năm 1945, pháp luật Việt Nam xây dựng theo mô hình của pháp luật Pháp, sau năm 1945 tới trước năm 1959 vẫn căn bản dựa trên mô hình này, từ năm 1959 đến năm 1992 chúng ta xây dựng mô hình pháp luật Xô viết, đặc điểm của hệ thống pháp luật này đó là nền kinh tế được tập trung trong tay Nhà nước, các doanh nghiệp, xí nghiệp chủ chốt của nền kinh tế đều do Nhà nước quản lý, bởi vậy trong suốt thời gian dài chúng ta không xây dựng được hệ thống pháp luật về doanh nghiệp, thành phần kinh tế tư bản, tư nhân bị coi nhẹ và không được khuyến khích phát triển. Từ mô hình phát triển kinh tế, kéo theo mô hình pháp luật để bảo vệ cho nền kinh tế đó nên trong thời kỳ này quyền tự do kinh doanh chưa được pháp luật thừa nhận rộng rãi, các chính sách pháp luật đưa ra thiếu thống nhất, chưa cân đối được quyền lợi giữa các chủ thể, tập trung chủ yếu vào các quy định về doanh nghiệp do Nhà nước làm chủ sở hữu.

Từ sau năm 1992 đến nay chúng ta xây dựng pháp luật để quản lý xã hội phát triển kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, chúng ta đã không có một mô hình pháp luật mẫu để áp dụng, như chúng ta đã biết sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa kéo theo đó là những bất cập, tồn tại mà pháp luật xã hội chủ nghĩa để lại trong đó có những quy định về bảo vệ tự do kinh doanh. Nhận thức được hạn chế, tồn tại về phát huy giá trị của quyền tự do kinh doanh, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương đổi mới hệ thống pháp luật, trong đó chú trọng đến bảo vệ quyền tự do kinh doanh. Tuy nhiên, chúng ta không sáng tạo ra được một mô hình pháp luật nào tương thích để điều chỉnh các quan hệ kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, pháp luật rơi vào tình trạng thiếu minh bạch, không gần gũi với thực tế và chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội tương đối thấp.

- Chưa thẩm tra đầy đủ tính logic của các đạo luật, văn bản quy phạm pháp luật trước khi ban hành.

Trên thực tế, việc soạn thảo văn bản luật thường do các Bộ chủ quản thuộc Chính phủ đảm nhận, sau khi hoàn thành việc soạn thảo sẽ được thẩm tra và đệ trình lên Quốc hội để thông qua. Tuy nhiên, ngay trong quá trình soạn thảo, thẩm tra và thông qua các đạo luật chúng ta đã chưa đánh giá hết được tính logic, trật tự, thứ bậc đối của đạo luật sắp ban hành đối với các đạo luật khác nên dẫn đến tình trạng pháp luật có sự chồng chéo, mâu thuẫn như hiện nay. Bên cạnh đó, trong quá trình thực thi, các đạo luật lại cần được hướng dẫn của nghị định hoặc thông tư, trong nhiều trường hợp một số điều khoản được hướng dẫn trong nghị định, Thông tư đi ngược lại với tinh thần của luật, đây cũng là một nguyên nhân khiến cho pháp luật của nước ta mâu thuẫn dẫn đến việc khó thực thi cho cả cơ quan quản lý và đối tượng bị quản lý.

- Quy trình, kỹ thuật lập pháp còn hạn chế.

Hiện nay, quy trình lập pháp của nước ta đã được luật hóa bằng Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Căn cứ vào chủ thể ban hành có thể chia quy trình lập pháp thành hai giai đoạn đó là giai đoạn thuộc Chính Phủ và giai đoạn thuộc Quốc hội. Tuy nhiên, do kỹ thuật lập pháp, kỹ thuật pháp điển hóa tại các Ban soạn thảo thuộc Chính phủ còn hạn chế dẫn đến tính khả thi, tính dự báo của pháp luật thấp và không thuyết phục được các Đại biểu Quốc hội thông qua. Bên cạnh đó, việc sửa đổi bổ sung văn bản quy phạm pháp luật cũng là nguyên nhân khiến cho pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh của nước ta mâu thuẫn bởi muốn sửa đổi nhóm quy định nào trong pháp luật thì cơ quan chủ quản thành lập một ban soạn thảo riêng và chỉ sửa đổi nhóm quan pháp luật đó, hệ hệ quả của cách làm này là tính đồng bộ, tính gắn kết về mặt nội dung giữa các văn bản pháp luật là rất yếu, đôi khi chúng mâu thuẫn, chồng chéo lên nhau, tạo thành lỗ hổng trong cơ chế điều chỉnh pháp luật về cùng một vấn đề.

- Hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh của nước ta còn tản mạn.

Trên thực tế, pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh của nước ta xảy ra tình trạng luật ra đời chờ Nghị định và Nghị định lại chờ Thông tư để hướng dẫn mới thi hành được. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do luật được xây dựng chung chung, khi áp dụng trên thực tế thiếu tính khả thi, khó áp dụng bởi vậy cần sự hướng dẫn chi tiết hơn từ nghị định và thông tư. Từ việc chờ hướng dẫn nên khi áp dụng Nghị định, Thông tư chính là chuẩn mực để thay thế luật, điều này là trái với nguyên tắc chung khi thực thi pháp luật. Tiếp đó, do việc không chịu trách nhiệm cá nhân khi thực hiện nên các cơ quan đùn đẩy, lảng tránh trách nhiệm, đòi hỏi các cơ quan khác phải chia sẻ trách nhiệm. Bởi vậy, dẫn đến tình trạng luật chuyên ngành luật được điều chỉnh bởi vô số các văn bản khác nhau, tạo nên sự không thống nhất, tản mạn và trong nhiều trường hợp các quy định của luật bị vô hiệu hóa bằng nghị định, thông tư hướng dẫn.

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 21/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí