Những Căn Cứ Cho Việc Hình Thành Yêu Cầu, Giải Pháp Hoàn Thiện Quy Định Của Pháp Luật Về Bảo Vệ Quyền Tự Do Kinh Doanh

Chương 3


YÊU CẦU, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


3.1. NHỮNG CĂN CỨ CHO VIỆC HÌNH THÀNH YÊU CẦU, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH

3.1.1. Căn cứ vào đặc điểm phát triển của nền kinh tế thị trường Việt Nam

Lý luận và thực tiễn đã chứng minh quyền tự do kinh doanh không hình thành một cách ngẫu nhiên, tự phát mà bắt nguồn từ những đòi hỏi khách quan của các quan hệ kinh tế thị trường và thông qua hoạt động lập pháp, lập quy của Nhà nước. Điều đó cũng có nghĩa rằng, việc đề ra những định hướng và giải pháp cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế bảo đảm quyền tự do kinh doanh ở nước ta luôn phụ thuộc trực tiếp vào các điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể. Vì vậy, khi đề ra những định hướng và giải pháp cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm quyền tự do kinh doanh phải dựa trên những đặc điểm hình thành, phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Chỉ có như vậy mới đảm bảo cho pháp luật tránh khỏi nguy cơ đứng trên hay đứng ngoài các quan hệ kinh tế mà nó điều chỉnh [9, tr. 156].

Có thể nhìn nhận khái quát nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những đặc điểm chủ yếu sau:

Thứ nhất, kinh tế thị trường nước ta phát triển trên cơ sở một nền kinh tế nông nghiệp cùng với sự phát triển mất cân đối giữa các khu vực.

Khi bắt tay xây dựng nền kinh tế thị trường, tổng sản phẩm thu nhập quốc dân của nước ta thì nông nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng cao nhất, lực lượng lao động chiếm khoảng 90% hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Hơn nữa, nền nông nghiệp nước ta lại lạc hậu, sản xuất nhỏ lẻ, manh mún. Sản xuất công nghiệp chủ yếu là khai khoáng với trình độ thô sơ, chưa có sản phẩm tinh chế, chủ yếu là xuất khẩu khoáng sản dưới dạng thô. Các ngành sản xuất then chốt nằm trong tay của Nhà nước, thị trường bất động sản chưa hình thành, thị trường tài chính đang manh nha và có nhiều điểm thiếu minh bạch. Bởi vậy, với đặc điểm này đòi hỏi khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế chúng ta phải giải quyết những mâu thuẫn giữa nền kinh tế chậm phát triển với những yêu cầu xây dựng một nền kinh tế hàng hóa và sự phát triển đồng bộ của các loại hình thị trường.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Thứ hai, nền kinh tế thị trường nước ta có xuất phát điểm từ một nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung cao độ.

Chúng ta đã thực thi việc đổi mới được gần 30 năm, Việt Vam đã thu được một số thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, chúng ta phải thửa nhận rằng nền kinh tế bị chi phối nặng nề bởi kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu bao cấp. Chẳng hạn, vốn dĩ thương trường đòi hỏi sự bình đẳng của các tổ chức kinh doanh. Nhưng các doanh nghiệp nhà nước được ưu ái về cả hai phương diện, đó là phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, phương diện khác là tạo sự dễ dãi trong việc kiểm tra, giám sát. Trong khi đó các thành phần kinh tế tư nhân lại bị coi nhẹ. Trong thời gian dài chúng ta không tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh trong doanh nghiệp có vốn của Nhà nước, sự can thiệp sâu của mệnh lệnh hành chính vào quá trình kinh doanh, do đó đã làm mất hoàn toàn tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp.

Bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Việt Nam - 10

Đặc điểm này đặt ra yêu cầu khi đề ra những định hướng và giải pháp xây dựng, hoàn thiện pháp về bảo vệ quyền tự do kinh

doanh phải xử lý mâu thuẫn giữa những quy định được coi là tàn dư của cơ chế kinh tế cũ với việc hình thành một tư duy pháp lý mới với tính cách là cơ sở lý luận và tư tưởng cho quá trình hoàn thiện pháp luật [9, tr. 158].

Đồng thời, pháp luật phải phản ánh các quy luật kinh tế thị trường, bảo vệ quyền tự do kinh doanh, bảo đảm sự quản lý của nhà nước trong việc xác định nội dung, cơ cấu của hệ thống pháp luật kinh tế. Yêu cầu đặt ra phải xóa bỏ triệt để quan niệm máy móc, bảo thủ, tư tưởng bảo thủ không chịu đổi mới, mà phải có sự cải cách căn bản sâu sắc mang tính cách mạng.

Thứ ba, nền kinh tế thị trường của Việt Nam với vai trò chủ đạo là các thành phần kinh tế Nhà nước

Trước khi tiến hành đổi mới, kinh tế Nhà nước được duy trì, phát huy mạnh mẽ, không có sự cạnh tranh, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Bởi vậy, khi đề ra định hướng và giải pháp cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về kinh tế bảo vệ quyền tự do kinh doanh, chúng ta phải xử lý nhiều mối quan hệ tinh tế xã hội phức tạp. Giải quyết được sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đồng thời vẫn phát huy được vai trò dẫn dắt của kinh tế nhà nước.

Thứ tư, nền kinh tế thị trường Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

“Với đặc điểm này, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không phải đơn thuần là một quá trình kinh tế mà bao giờ cũng phải gắn liền với những thay đổi lớn, căn bản về mặt xã hội, thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội” [9, tr. 160]. Vì vậy, khi đề ra phương hướng và giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh phải đồng thời giải quyết hai vấn đề lớn, đó là bảo vệ quyền tự do kinh doanh đồng thời bảo vệ được định hướng xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ

quyền tự do kinh doanh phải hài hòa với các mối quan hệ xã hội, xây dựng một xã hội tiến bộ, dân chủ và công bằng.

3.1.2. Căn cứ vào đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam

Sau gần 30 năm tiến hành đổi mới, đất nước ta đã thu được một số thành tựu đáng kể, nền kinh tế đã có những dấu hiệu tích cực của nền kinh tế thị trường, điều này đã chứng minh tính đúng đắn của con đường đổi mới. Pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh chính là sự thể chế hóa quan điểm chủ đạo của Đảng. Dựa vào những căn cứ này sẽ làm cho pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh nước ta trở thành bảo đảm pháp lý vững chắc cho tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường vận hành một cách tích cực, trôi chảy.

Đường lối phát triển kinh tế của nước ta được tập trung trong một số mục tiêu phát triển kinh tế như sau:

Một là, nhiệm vụ bao trùm của nước ta là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chủ trương xây dựng đất nước có một nền công nghiệp tiên tiến, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế.

Đảng ta chỉ rõ, để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì điều kiện quan trọng hàng đầu đó là vốn, vì vậy phải phát huy được nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài. Để thực hiện nhiệm vụ chiến lược này, pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh phải thể hiện được vai trò tạo dựng được hành lang pháp lý thúc đẩy ngành dịch vụ phát triển, tang dần tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu kinh tế.

Hai là, Đảng thực hiện nhất quán đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo

pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng hợp tác lâu dài và cạnh tranh lành mạnh. Dựa vào đặc điểm này có thể nói hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh tập trung vào việc bảo vệ sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Sửa đổi toàn bộ hệ thống pháp luật nhằm tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các quy định của pháp luật.

Ba là, tiếp tục thiết lập đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, đặc biệt quan tâm đến các thị trường như bất động sản, thị trường vốn, thị trường chứng khoán... để đảm bảo quyền tự do kinh doanh cần bổ sung, hoàn thiện các quy định về doanh nghiệp, phá sản, chứng khoán… những bộ phận pháp luật này là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội.

Bốn là, chủ động hội nhập kinh tế, quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả nền kinh tế thị trường. Việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh cần đảm bảo sự hài hòa, tương thích với pháp luật quốc tế. Để đạt được điều đó cần xử lý một cách khoa học những vấn đề cơ bản như mối quan hệ giữa định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế với yếu tố hội nhập, giữa thực tiễn pháp lý Việt Nam với việc thừa nhận tập quán pháp lý quốc tế.

3.1.3. Căn cứ vào thành quả của nghiên cứu khoa học và kinh nghiệm trong thời gian qua, tiếp thu những giá trị, những yếu tố hợp lý của các tư tưởng, học thuyết pháp lý tiến bộ của nhân loại

Ngày nay trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, khi mà các nền kinh tế đang có xu hướng phát triển với những nét tương đồng giống nhau thì việc tiếp thu những giá trị, những giá trị, những yếu tố hợp lý của các tư tưởng, học thuyết pháp lý tiến bộ của nhân loại để vận dụng thích hợp vào quá trình xây dựng và hoàn thiện của mỗi quốc gia cho phát triển kinh tế là yêu cầu khách quan.

Trong quá trình hợp tác và hội nhập, những thách thức chủ yếu của hệ thống pháp luật Việt Nam đó là ở những quy định về bảo vệ quyền tự do kinh

doanh. Bởi vậy, khi tiếp thu những giá trị tinh hoa của nền pháp lý nhân loại chúng ta cần chú ý những vấn đề sau:

Thứ nhất, trong quá trình xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật cần tiếp cận nguyên lý phân định luật công và luật tư.

Trước hết, "cần phải khẳng định rằng, đây không phải là vấn đề cơ cấu lại các ngành luật mà xuất phát từ tính chất công - tư của các quan hệ xã hội, từ đó có phương pháp khác nhau trong điều chỉnh pháp luật và áp dụng pháp luật" [9, tr. 166]. Bảo vệ quyền tự do kinh doanh gắn với việc tự do ý chí, tách bạch quyền sở hữu của các doanh nghiệp có vốn nhà nước với quyền kinh doanh, có chế độ chịu trách nhiệm cá nhân và giao cụ thể cho một cơ quan quản lý nhà nước chịu trách nhiệm về hoạt động của các doanh nghiệp. Hình thành nên một nền hành chính công, đặt lợi ích của người dân, của các chủ thể kinh doanh lên hàng đầu.

Thứ hai, vận dụng nguyên lý về mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng trong xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật.

Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, luật chuyên ngành bao giờ cũng được áp dụng trước. Đối với những vấn đề mà luật chuyên ngành không quy định thì áp dụng các quy định của luật chung. Ở nước ta, mối quan hệ giữa luật chung và luật chuyên ngành chưa được giải quyết một cách ổn thỏa đáng. Chẳng hạn như việc đăng ký hoạt động doanh nghiệp chịu sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp, các luật chuyên ngành như: Luật các tổ chức tín dụng, Luật giáo dục, Luật du lịch, Luật luật sư… Vì vậy hệ thống pháp luật ở nước ta chưa có được tính thống nhất, chưa có tính liên thông. Điều này gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật vào cuộc sống, quan trọng hơn là ảnh hưởng tới quyền tự do kinh doanh của công dân, của doanh nghiệp. Do đó, để xử lý vấn đề này thì vấn đề chủ yếu là ở chỗ nghiên cứu lập pháp phải có quan điểm cụ thể và toàn diện. Ngoài ra, để xử lý tốt hơn mối quan hệ đó, đòi hỏi phải đẩy mạnh hoạt động giải thích pháp luật, và cách giải thích pháp luật quan trọng và có hiệu quả nhất đó là trao thẩm quyền giải thích pháp luật cho Tòa án hoặc một cơ quan Bảo hiến (trong đó bao gồm cả nhiệm vụ giải thích pháp luật).

Thứ ba, nên coi các tập quán là nguồn của pháp luật

Hệ thống pháp luật Việt Nam là hệ thống dựa vào luật thành văn. Theo đó, nguồn của pháp luật là những văn bản chứa đựng các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành. Vì vậy, những tập quán không được coi là khuân mẫu xử sự chung cho các hành vi của các chủ thể pháp luật. Tuy nhiên, vai trò của tập quán là không thể phủ nhận, trong một số quan hệ pháp luật cụ thể chưa được điều chỉnh bằng luật thành văn nên trong những trường hợp đó pháp luật cho phép các chủ thể được áp dụng tập quán để giải quyết. Bởi vậy, pháp luật cần thừa nhận tập quán là một nguồn của pháp luật. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật của chúng ta không thừa nhận và cho áp dụng án lệ, tuy nhiên vai trò của án lệ lại vô cùng quan trọng. Ở nước ta hiện nay nên trao quyền pháp điển hóa án lệ cho Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, sẽ tập hợp những bản án được dư luận xã hội, khoa học pháp lý, đánh giá là công bằng, nghiêm minh, vào hệ thống Án lệ để trong quá trình xét xử hoặc khi xây dựng pháp luật có thể lấy đó làm nguồn pháp luật, làm căn cứ cho việc xét xử.


3.2. YÊU CẦU HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH

3.2.1. Việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh phải đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân

Xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta trong công cuộc đổi mới đất nước là một đòi hỏi cấp thiết, phù hợp với những điều kiện phát triển khách quan của quốc gia và xu thế của thời đại. Sự nghiệp này xuất phát từ hàng loạt yêu cầu khách quan của đất nước như: thực hiện phát triển kinh tế thị trường gắn với định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội, bảo đảm các quyền công dân, chủ động tham gia vào quá trình hội nhập và thực hiện nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh phải gắn với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đó là kiểu nhà nước được xây dựng và hoạt động trên cơ sở pháp luật, có sự phân công lao động hợp lý giữa các quyền hành pháp, tư pháp và lập pháp. Pháp luật giữ vị trí và vai trò to lớn là phương tiện hàng đầu để điều chỉnh xã hội, pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải thực sự vì con người, là công cụ ghi nhận các quyền của con người. Xây dựng nhà nước pháp quyền để củng cố, phát huy bản chất vì nhân dân của nhà nước ta, thiết lập những mối quan hệ đúng đắn giữa nhà nước và nhân dân. Xây dựng một nhà nước pháp quyền sẽ cho phép giải quyết một cách tốt nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, quyền tự do kinh doanh là một phần cơ bản của quyền công dân, bảo vệ quyền tự do kinh doanh chính là giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và công dân. Bởi vậy, việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh không thể tách rời khỏi yêu cầu chung đó là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Xây dựng nhà nước pháp quyền là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, khó khăn, phức tạp. Những nhiệm vụ và phương hướng cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền liên quan đến nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Bảo vệ quyền tự do kinh doanh là một bộ phận trong cải cách pháp luật, tuy nhiên, nó là mảnh ghép không thể thiếu được trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

3.2.2. Việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh phải đáp ứng yêu cầu bảo đảm quyền con người, quyền công dân

Quyền con người được quan niệm là các quyền tự nhiên, quyền con người là nền tảng căn bản nhất của đời sống con người mà không thể bị hạn chế hay giảm bớt. Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Hồ Chủ tịch đã viết

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 21/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí