Bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Việt Nam - 12

cầu của Tòa án. Quy định trên là bất khả thi. Bởi lẽ, người yêu cầu mở thủ tục phá sản thường rất khó tự thu thập chứng cứ. Thậm chí, ngay cả khi Tòa án yêu cầu người rơi vào tình trạng phá sản nộp chứng cứ thì họ cũng còn bất hợp tác, huống hồ đặt ra cho chủ nợ thời hạn cung cấp tài liệu vỏn vẹn 10 ngày. Công tác thu hồi, xử lý tài sản nợ đối với doanh bị mở thủ tục phá sản trên thực tế cũng nảy sinh nhiều bất cập. Vì doanh nghiệp gắn liền với nhiều mối quan hệ liên doanh, liên kết, hợp đồng mua bán, trao đổi hàng hóa qua lại với nhiều đối tác và trải rộng ở nhiều địa phương trong cả nước.

Bởi vậy cần phải sửa đổi thời hạn cung cấp chứng cứ và cũng tránh để trường hợp đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ và quy định nghĩa vụ buộc phải cung cấp chứng cứ của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.

Tiếp đó, trong Luật Phá sản cũng nên mở rộng đối tượng được phép đề nghị cơ quan có thẩm quyền tuyên bố doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Cụ thể, trong quá trình hoạt động các cơ quan Thuế, Kiểm toán, Thanh tra có thể phát hiện tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp bởi vậy, luật nên quy định những cơ quan này có quyền đề nghị Tòa án tuyên bố các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Bên cạnh đó, luật cũng cần có chế tài để áp dụng trong trường hợp những cơ quan này vì bất kỳ lý do nào đó trì hoãn hoặc cố ý không đề nghị đến cơ quan có thẩm quyền khi phát hiện doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.

3.3.4. Cải cách thủ tục hành chính

Xuất phát điểm của nước ta đó là một nền kinh tế được xây dựng trên mô hình kế hoạch, tập trung, bao cấp toàn bộ, các mục tiêu kinh tế được điều chỉnh bởi các mệnh lệnh hành chính. Nhận thức được quy luật phát triển của thời đại, Đảng và Nhà nước đã kiên quyết đổi mới, xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù, hiện nay nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng mừng, song bên cạnh đó tàn dư của cả thời kỳ kế hoạch hóa,

bao cấp vẫn còn in đậm trong đời sống, ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường tự do kinh doanh. Độc quyền hành chính làm cản trở hoạt động kinh doanh, trì trệ môi trường kinh doanh. Chúng ta đang tích cực đổi mới, cải cách hành chính để tạo dựng được môi trường cạnh tranh lành mạnh nhưng trên thực tế vẫn tồn tại một số điểm yếu của cải cách hành chính trong thời gian qua là: chưa xác định rõ vai trò của Nhà nước và thị trường trong giai đoạn hiện nay; không kiên quyết trong việc tổ chức lại bộ máy Nhà nước theo hướng tinh giản và năng động; thủ tục hành chính không được kiểm soát chặt chẽ về số lượng, về quy trình, chi phí và mức độ thân thiện. Bởi vậy, để góp phần tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, giảm bớt những tiêu cực trong cơ chế cạnh tranh cần phải đẩy mạnh cải cách hành chính, giải quyết tốt những tồn tại được nêu ở trên, trả lại sự công bằng đối với môi trường cạnh tranh.

3.3.5. Bổ sung các quy định mới trong Bộ luật Hình sự và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để xây dựng mô hình về thương lượng hòa giải

Trước sự phát triển của kinh tế thị trường đã làm nảy sinh nhiều hành vi tội phạm tuy nhiên, pháp luật hình sự chưa có những quy định để có chế tài xử lý đối với những loại tội phạm mới xuất hiện. Bởi vậy, trong thời gian tới, cơ quan lập pháp cần có hướng bổ sung một số loại tội phạm mới để nhằm bảo vệ quyền tự do kinh doanh. Cụ thể, pháp luật về hình sự nên bổ sung một số loại tội phạm sau:

Tội phạm liên quan đến lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp: nên đưa ra nhóm quy định về việc khai khống vốn điều lệ, có chế tài xử lý về mặt hình sự đối với các doanh nghiệp khai khống vốn điều lệ với cơ quan đăng ký kinh doanh. Trong lĩnh vực công nghệ thông tin đưa ra các chế tài để xử lý hành vi liên quan đến việc sử dụng trái phép thông tin cá nhân.

Trong thực tiễn triển khai quyền tự do kinh doanh giữa các chủ thể thường phát sinh tranh chấp. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

định hướng xã hội chủ nghĩa, các tranh chấp kinh tế xuất hiện ngày càng nhiều với quy mô ngày càng lớn và tính chất ngày càng phức tạp. Các tranh chấp kinh tế phát sinh đòi hỏi phải được giải quyết thỏa đáng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong tranh chấp, bảo đảm trật tự kinh doanh và duy trì kỷ cương xã hội. Đánh giá về vai trò của hoạt động giải quyết tranh chấp kinh tế, có quan điểm cho rằng: giải quyết tranh chấp kinh tế trong giai đoạn hiện nay đã trở thành một lĩnh vực hoạt động quan trọng, có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của kinh tế đất nước.

Để bảo đảm cho các nhà kinh doanh được lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp phù hợp, Nhà nước Việt Nam đã thừa nhận sự đa dạng trong các hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh. Các phương thức giải quyết giải quyết tranh chấp bao gồm: thương lượng, hòa giải, Trọng tài và Tòa án. Mỗi phương thức có ưu điểm và hạn chế riêng nên việc lựa chọn phương thức này hay phương thức khác hoặc sử dụng phối hợp các phương thức để giải quyết tranh chấp còn phụ thuộc vào tính chất, quy mô tranh chấp, thái độ hợp tác giữa các bên. Về lợi thế của từng phương thức giải quyết tranh chấp, các nhà kinh doanh cho rằng: Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tốt hơn Tòa án, nhưng tự thương lượng, hòa giải với nhau còn tốt hơn giải quyết bằng trọng tài, còn tốt nhất là đừng để xảy ra tranh chấp.

Bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Việt Nam - 12

Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng hòa giải là phương thức được đông đảo các nhà kinh doanh ưa chuộng, bởi việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức này thể hiện nhiều ưu việt: nhanh chóng, tiết kiệm, giữ được uy tín…Nhưng có lẽ xuất phát từ quan niệm thương lượng, hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh không chính thức mà pháp luật hiện hành không quy định chi tiết về phương thức này. Để thương lượng, hòa giải phát huy tích cực trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế, nên lưu ý đến các vấn đề sau:

Thứ nhất, cần có những quy định cụ thể về thương lượng, hòa giải tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành các thiết chế có liên quan đến việc giải

quyết tranh chấp bằng hòa giải (quy tắc hòa giải, các tổ chức, bộ máy hòa giải, người làm trung gian hòa giải). Như vậy, bên cạnh pháp luật về tố tụng Tòa án, pháp luật về trọng tài còn có chế định pháp luật về thương lượng, hòa giải. Để tạo định hướng cho các bên tranh chấp tiến hành thủ tục hòa giải, các tổ chức có liên quan (ví dụ như Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội luật gia Việt Nam, các Trung tâm trọng tài) cần xây dựng và lưu hành các quy trình thương lượng, hòa giải và khuyến khích các nhà kinh doanh nên lựa chọn khi giải quyết tranh chấp trong kinh doanh.

Thứ hai, tăng cường sự hỗ trợ của Tòa án đối với việc thương lượng, hòa giải của các bên. Sự hỗ trợ này có thể được thực hiện bằng con đường sau:

Tòa án nên từ chối không thụ lý đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp phát sinh từ những quan hệ mà pháp luật quy định hoặc các bên đã thỏa thuận việc giải quyết tranh chấp trước hết phải thông qua thương lượng, hòa giải mà các bên không thực hiện thủ tục này.

- Tòa án không tính khoảng thời gian mà các bên tranh chấp đã sử dụng vào việc thương lượng, hòa giải vào thời hiệu khởi kiện.

- Tòa án có thể xem xét để công nhận phương án hòa giải mà các bên đã đạt được theo yêu cầu của một hoặc các bên tham gia thương lượng, hòa giải. Hạn chế lớn nhất của thương lượng, hòa giải là phương án này không có hiệu lực cưỡng chế thi hành đối với các bên. Điều này tạo điều kiện cho các bên tranh chấp không có thiện chí lợi dụng việc thương lượng, hòa giải để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ. Hiện nay, Tòa án chỉ xem xét và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên đương sự chỉ đối với những vụ án do Tòa án thụ lý giải quyết. Bởi vậy, nên chăng pháp luật sẽ quy định Tòa án xem xét và công nhận cả những phương án hòa giải ngoài tố tụng để cho thương lượng, hòa giải thực sự trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế hữu hiệu.

Thứ ba, nâng cao, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ của hội thẩm về kỹ năng thương lượng hòa giải. Thực trạng hiện nay diễn ra phổ biến ở các

phiên tòa đó là vai trò của Hội thẩm nhân dân hết sức mờ nhạt, theo quy định của pháp luật về tố tụng thì trong một phiên xét xử Hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán. Tuy nhiên, vai trò của Hội thẩm nhân dân chưa thực sự tương xứng với những gì mà pháp luật quy định. Nguyên nhân chính là do trình độ của Hội thẩm chưa cập với những (đa phần Hội thẩm được mời không có chuyên môn sâu trong lĩnh vực mà các bên tranh chấp), do tâm lý nể nang và dường như đã định khung từ trước nên trong giải quyết vụ án hội thẩm nhân dân không đóng vai trò quan trọng.

3.3.6. Đảm bảo yếu tố tương thích với pháp luật quốc tế

Mặc dù hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh của nước ta hiện nay phần nào đã đáp ứng được các điều kiện của giai đoạn đầu hội nhập, nhưng so với chế định pháp lý quốc tế thì vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế. Bởi vậy, cần nhanh chóng hoàn thiện pháp luật để từng bước hài hòa với luật pháp quốc tế. Tiếp thu kinh nghiệm áp dụng án lệ của các quốc gia trên thế giới để trong quá trình xét xử có thể tập hợp hóa những bản án để thành những án lệ, coi án lệ và các tập quán thương mại quốc tế là một nguồn của pháp luật. Bên cạnh đó, rà soát, sửa đổi các quy định của pháp luật về đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại trên cơ sở các quy định trong những thỏa thuận tạo nên nền tảng của WTO như GAAT, GATS, TRIM….

Tóm lại, từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền tự do kinh doanh, vai trò của pháp luật kinh tế trong việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh và nghiên cứu thực trạng pháp luật kinh tế bảo vệ quyền tự do kinh doanh ở nước ta hiện nay cho thấy vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật là yêu cầu khách quan.

Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật phải dựa trên những căn cứ nhất định, phải bảo đảm tính khoa học, tính thực tiễn, tính khả thi, tính đồng bộ, tương thích của hệ thống pháp về bảo vệ quyền tự do kinh doanh. Trên cơ sở của những căn cứ được trình bày, tác giả luận văn xin đưa ra một

số phương hướng cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh ở nước ta bao gồm:

Thứ nhất, xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ hướng tới việc thống nhất sự điều chỉnh pháp luật hoạt động kinh doanh của các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế.

Thứ hai, xây dựng pháp luật phải mang tính khả thi, đảm bảo các yếu tố về tính logic, trật tự, thứ bậc trong hệ thống pháp luật.

Thứ ba, nâng cao hơn nữa vai trò xây dựng chương trình làm luật xác đáng, sử dụng đội ngũ chuyên gia trong soạn thảo, thẩm tra dự án luật, tạo được một mô hình pháp luật phù hợp với định hướng kinh tế thị trường gắn với chủ nghĩa xã hội.

Thứ tư, bổ sung thêm nguồn của pháp luật từ hệ thống án lệ, tập quán bảo đảm tính hài hòa tương thích với pháp luật và tập quán quốc tế.

Việc chọn những giải pháp cơ bản cho việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Những giải pháp đã trình bày chính là những đòi hỏi cơ bản mà quyền tự do kinh doanh và việc bảo vệ quyền này đặt ra đối với hệ thống pháp luật nước ta.

KẾT LUẬN


Như vậy, qua những phân tích, đánh giá, nhận xét nêu trên điều mà tác giả muốn tỏ bày đó là việc bảo vệ quyền tự do kinh doanh là một bộ phận quan trọng hợp thành hệ thống các quyền tự do của con người. Vì vậy, một mặt nó phải được xem như là một giá trị tự thân, mặt khác nó phải được Nhà nước quy phạm hóa bằng pháp luật thì mới có giá trị thực hiện. Bởi thế, bảo vệ quyền tự do kinh doanh được hiểu là một phạm trù pháp lý.

Trước hết, nó là quyền năng của chủ thể được tiến hành mọi hoạt động kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tiếp đó, quyền tự do kinh doanh là tổng hợp những quy phạm pháp luật và những bảo đảm pháp lý do Nhà nước ban hành nhằm tạo điều kiện cho các cá nhân, thể nhân, pháp nhân thực hiện quyền chủ thể. Trong giai đoạn hiện nay, nhằm hướng đến một nhà nước dân quyền với cơ sở là một nền tảng kinh tế vững mạnh thì không thể không cổ xúy, đề cao vai trò của tự do kinh doanh. Bằng chủ trương, đường lối và chính sách pháp luật Đảng và Nhà nước ta khơi dậy, đồng thời tạo những hành lang pháp lý an toàn để từ đó tầng lớp thương nhân nói riêng và toàn thể quần chúng nhân dân có thể tự do kinh doanh, phát huy tốt nhất khả năng của mình để làm giàu cho bản thân, cho gia đình và xã hội. Với hàng nghìn năm văn hiến, bên cạnh đó là sự tiếp thu những tinh hoa của thế giới, dưới ánh sáng lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, chúng ta có niềm tin rằng Việt Nam ta sẽ sáng ngang với "các cường quốc trong năm châu", duy trì được sự ổn định và thịnh vượng của cả một dân tộc.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Vũ Hồng Anh (2008), "Về vị trí, tính chất của chính phủ trong bộ máy nhà nước ở nước ta ", Quản lý nhà nước, (8).

2. Triệu Thạch Bảo - Dương Mẫn (1998), Bàn về cơ chế kinh tế thị trường Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Nguyễn Công Bình (Chủ biên) (2009), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2010), Thông tư số 14/2010/TT-BKH ngày 04/6 hướng dẫn một số nội dung về hồ sơ, trình tự thủ tục đăng ký doanh nghiệp, Hà Nội.

5. Chính phủ (2007), Nghị định số 53/2007/NĐ-CP ngày 04/4 quy định chi tiết về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư, Hà Nội.

6. Chính phủ (2010), Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4 về đăng ký doanh nghiệp, Hà Nội.

7. Ngô Huy Cương (2006), Góp phần về cải cách pháp luật ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

8. Ngô Huy Cương (Chủ nhiệm) (2007), Tự do ý chí trong pháp luật Việt Nam, Đề tài nghiên cứu đặc biệt cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, Mã số: QG 0738.

9. Bùi Ngọc Cường (2004), Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội,

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/12 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Hà Nội.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/12/2022