Các Quy Định Của Pháp Luật Về Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Bằng Biện Pháp Hành Chính

phẩm sáng tạo mà mọi nỗ lực sáng tạo đều được hướng vào việc nâng cao không ngừng, đổi mới không ngừng trình độ công nghệ và kinh doanh.

Đồng thời với đó thì Việt Nam cũng coi bảo vệ quyền SHCN thông qua xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với thực tiễn phù hợp với thông lệ quốc tế là nhân tố quan trọng trong chính sách mở cửa phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng và Nhà nước coi phát triển khoa học công nghệ là mũi nhọn trong phát triển nền kinh tế, khuyến khích đầu tư cho hoạt động sáng tạo vì sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua cơ chế bảo vệ và dung hòa lợi ích của chủ thể quyền với lợi ích của toàn xã hội. Để đảm bảo cho điều đó thì Nhà nước cũng chú trọng xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý bình đẳng cho hoạt động cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể quyền trong cơ chế thị trường nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định. Bên cạnh đó hoạt động khuyến khích, thu hút và tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư và chuyển giao công nghệ không chỉ trong nước mà cả từ nước ngoài vào Việt Nam cũng đang được chú trọng.

Ngày 7/11/2006 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, theo các cam kết chúng ta phải thực hiện mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, ngoại trừ quyền SHTT chúng ta phải hội nhập ngay mà không có lộ trình thực hiện, điều đó đòi hỏi phải cải cách hơn nữa hệ thống pháp luật về quyền SHTT nói chung và bảo vệ quyền SHCN bằng các biện pháp hành chính, hình sự, kiểm soát hàng hóa xuất nhập khẩu qua biên giới liên quan đến sở hữu công nghiệp nói riêng bảo đảm tương thích với luật pháp và các thông lệ quốc tế. Điều này đòi hỏi phải đánh giá đầy đủ thực trạng bảo vệ quyền SHCN bằng các biện pháp đã đề cập trên đây trên cả phương diện xây dung pháp luật và thực tiễn áp dụng, qua đó đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. Đó cũng chính là những nội dung nghiên cứu tại các Chương tiếp theo của Luận văn mà tác giả muốn được khẳng định.

Chương 2

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP BẰNG BIỆN PHÁP HÀNH CHÍNH, HÌNH SỰ, KIỂM SOÁT HÀNG

HÓA XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU LIÊN QUAN ĐẾN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP


2.1. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP BẰNG BIỆN PHÁP HÀNH CHÍNH

Ngày 29 ngày 11 năm 2005, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Luật sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2006, đây là một bước tiến có ý nghĩa lớn của ngành luật SHTT nước ta trong những năm qua. Một trong những nội dung quan trọng của việc thực thi quyền SHTT nói chung và quyền SHCN nói riêng mà Luật SHTT hiện nay và các văn bản pháp luật trước đó quy định, đó là vấn đề xác định hành vi xâm phạm quyền SHCN và các biện pháp xử lý hành vi vi phạm đó. Chúng ta biết rằng quyền SHCN là một trong các quyền dân sự (quyền nhân thân, quyền tài sản) của tổ chức, cá nhân được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, do đó khi có hành vi xâm phạm xảy ra thì các biện pháp xử lý mà pháp luật quy định sẽ được áp dụng trong đó có biện pháp hành chính. Biện pháp xử lý hành chính được áp dụng bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các chủ thể thực hiện hành vi vi phạm, đây là biện pháp được áp dụng chủ yếu hiện nay vì:

- Các vụ xâm phạm quyền SHCN được phát hiện chủ yếu là bởi các cơ quan này trong đó phải kể đến Thanh tra Khoa học và Công nghệ, lực lượng Quản lý thị trường, cơ quan Công an. Đây là những lực lượng trực tiếp quản lý các đối tượng có khả năng thực hiện các hành vi xâm phạm quyền SHCN do đó có điều kiện phát hiện và xử lý vi phạm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 161 trang tài liệu này.

- Thủ tục XPVPHC cũng không quá phức tạp và không mất nhiều thời gian, trong khi việc xử lý bằng biện pháp dân sự phải qua cơ quan xét xử với thủ

tục phức tạp và thời gian kéo dài, bên cạnh đó cũng phải kể đến tâm lý e ngại dính dáng đến toà án của các bên liên quan trong vụ việc.

Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính, hình sự và kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu công nghiệp - 5

- Trên cơ sở phát hiện và xử lý hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền SHCN biện pháp xử lý tiếp theo theo thủ tục tố tụng dân sự sẽ được áp dụng nếu bên vi phạm và bên bị vi phạm không thể tự thỏa thuận với nhau về việc bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra, trong nhiều trường hợp, theo quy định của pháp luật, xử lý hành chính sẽ là cơ sở là căn cứ cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi tái phạm.

Mặt khác nước ta đang trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường với đặc thù định hướng xã hội chủ nghĩa do đó cần đến sự điều tiết, điều chỉnh từ phía các cơ quan nhà nước, nhất là các cơ quan hành chính đối với với trật tự quản lý kinh tế nói chung và xử lý các hành vi xâm phạm quyền SHCN nói riêng. Do đó biện pháp hành chính vẫn được coi là một biện pháp quan trọng và được sử dụng chủ yếu trong xử lý hành vi xâm phạm quyền SHCN hiện nay.

Việc xử lý hành chính đối với các hành vi xâm phạm quyền SHCN được quy định trong một số văn bản pháp luật quan trọng như: Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, sửa đổi, bổ sung năm 2007 và 2008; Luật SHTT năm 2005, Nghị định 106/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật SHTT về XPVPHC trong lĩnh vực SHCN...

2.1.1. Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp bị xử lý bằng biện pháp hành chính

Tại khoản 1 Điều 211 của Luật SHTT và được cụ thể hoá tại khoản 2 Điều 1 của Nghị định 106 quy định XPVPHC về SHCN đã quy định các hành vi xâm phạm sau đây sẽ bị xử phạt hành chính:

- Các hành vi vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước về SHCN;

- Thực hiện hành vi xâm phạm quyền SHCN gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội;

- Không chấm dứt hành vi xâm phạm quyền SHCN mặc dù đã được chủ thể quyền SHCN thông báo bằng văn bản yêu cầu chấm dứt hành vi đó;

- Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hóa giả mạo về SHCN theo quy định tại Điều 213 của Luật SHTT hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này;

- Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán vật mang nhãn hiệu hoặc CDĐL trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, CDĐL được bảo hộ hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này”.

Như vậy theo quy định mới đã xác định những hành vi xâm phạm quyền SHCN bị xử lý bằng biện pháp hành chính và phân định thành nhóm các hành vi xâm phạm, tức là đã cá biệt hoá các hành vi xâm phạm quyền SHCN bị xử lý bằng biện pháp hành chính so với pháp luật SHTT trước đây. Đồng thời, việc xác định nhóm hành vi xâm phạm với mức độ, tính chất nguy hại cho xã hội khác nhau thì sẽ bị áp dụng các biện pháp khác nhau, trao quyền chủ động cho các cơ quan bảo vệ pháp luật, chủ sở hữu, sử dụng hợp pháp các quyền SHCN trong việc đấu tranh chống các hành vi xâm phạm. Đồng thời với việc quy định những dạng hành vi xâm phạm quyền SHCN bị xử lý hành chính như trên sẽ góp phần giảm thiểu sự can thiệp có tính chất tuỳ tiện của các cơ quan hành chính như đã từng xảy ra trước đây đối với hoạt động bình thường của các chủ thể có liên quan.

Quy định trên đã chỉ rõ được vai trò chủ động của chủ sở hữu, chủ sử dụng quyền SHCN trong việc xử lý hành vi xâm phạm quyền SHCN bằng việc chủ thể quyền SHCN thông báo bằng văn bản yêu cầu chấm dứt hành vi đó. Và tại Điều 9, Luật SHTT cho phép “ Tổ chức, cá nhân có quyền áp dụng các biện pháp mà pháp luật cho phép để tự bảo vệ quyền SHTT của mình....”. Việc quy định như vậy sẽ tạo sự chủ động của các chủ sở hữu, chủ sử dụng hợp pháp quyền SHCN được tiến hành các biện pháp luật định trong đó có biện pháp thông báo cho chủ thể vi phạm biết rõ hành vi xâm phạm đến quyền SHCN của mình và yêu cầu phải chấm dứt hành vi xâm phạm đó nhằm bảo vệ quyền lợi

của mình. Đồng thời, thủ tục thông báo cho chủ thể vi phạm chấm dứt hành vi xâm phạm đó còn là một bước để cơ quan xử lý vi phạm hành chính lấy làm cơ sở xử lý hành vi vi phạm nếu chủ thể vi phạm không chấm dứt hành vi xâm phạm quyền SHCN đó. Việc quy định như vậy đã kế thừa một quyền dân sự cơ bản của chủ sở hữu, chủ sử dụng hợp pháp quyền SHTT trong pháp luật dân sự khi cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước buộc người có hành vi xâm phạm quyền SHTT phải chấm dứt vi phạm (khoản 2, Điều 804, Bộ luật Dân sự 1995 trước đây) và các quy định chung về bảo vệ quyền sở hữu quy định tại Chương XV Bộ luật Dân sự 2005. Luật SHTT quy định việc chính chủ sở hữu, chủ sử dụng hợp pháp có quyền tự mình ra thông báo yêu cầu bên vi phạm chấm dứt hành vi xâm phạm quyền SHTT, việc ra thông báo này được coi là một hành động trước khi hành vi xâm phạm quyền SHTT bị xử lý bằng biện pháp hành chính.

Luật SHTT đã xác định được các hành vi xâm phạm quyền SHCN trong việc sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng giả về SHCN với các hành vi sản xuất, kinh doanh, lưu thông hàng giả khác.

Tuy nhiên, ở đây cần có sự phân biệt giữa hàng hóa giả mạo về SHTT và hàng hoá xâm phạm quyền SHTT.

Một trong những điểm hạn chế và bất cập trong các văn bản pháp luật về SHTT trước đây là chưa có sự quy định về hàng hoá giả mạo về SHTT và hàng hoá xâm phạm quyền SHTT mà thay vào đó là việc đánh đồng hai loại hàng hoá này cùng với các hàng hoá giả mạo khác bằng việc quy định về hàng giả nói chung (ví dụ như hàng giả về nhãn hiệu, kiểu dáng; hàng giả về chất lượng, công dụng...). Chính điều này đã gây nên sự bất hợp lý trong việc áp dụng và thực thi các quy định pháp luật về SHTT có liên quan đến lĩnh vực nói trên.

Trước đây, khi phân định giữa hàng giả và hàng vi phạm SHTT để xử lý theo Điều 18 Nghị định 175/2004/NĐ-CP ngày 10/10/2004 của Chính phủ về việc xử phạt hành chính trong lĩnh vực thương mại đối với hành vi kinh doanh, nhập khẩu, tái chế, đóng gói, phân loại,.. hàng giả là rất khó khăn, mặc dù

Thông tư liên tịch số 10 ngày 27/04/2000 của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Bộ Thương mại, Bộ Công an, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 31/1999 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả (Thông tư 10), đã xác định được “hàng giả” bao gồm nhiều loại trong đó có hàng giả về nhãn hiệu hàng hoá, kiển dáng công nghiệp, nguồn gốc, xuất xứ hàng hoá, nhưng Thông tư này cũng chưa xác định được khái niệm “hàng giả về SHTT”, cho nên Thông tư này cũng không định nghĩa được hành vi xâm phạm quyền SHTT trong việc sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hoá.

Với sự ra đời Luật SHTT năm 2005 và một số văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành đã quy định cụ thể về hàng hoá giả mạo về SHTT và hàng hoá xâm phạm quyền SHTT từ đó giúp cho các cơ quan thực thi pháp luật có thể giải quyết nhanh và xử lý đúng tính chất của các hành vi xâm phạm quyền SHTT nhằm bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu, chủ sử dụng hợp pháp quyền SHTT.

Theo quy định tại Điều 213 của Luật SHTT, hàng hoá giả mạo về SHTT được quy định như sau:

Hàng hoá giả mạo về SHTT bao gồm hàng hoá giả mạo nhãn hiệu, giả mạo chỉ dẫn địa lý và hàng hoá sao chép lậu, trong đó:

- Hàng hoá giả mạo nhãn hiệu là hàng hoá, bao bì của hàng hoá có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý;

- Hàng hoá sao chép lậu là bản sao được sản xuất mà không được phép của chủ thể quyền tác giả và quyền liên quan.

Trong khi đó căn cứ vào Luật SHTT và theo quy định từ Điều 7 đến 14 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật SHTT về bảo vệ quyền SHTT và quản lý nhà nước về SHTT (Nghị định 105) có quy định: hàng hoá xâm phạm quyền SHTT

là các hàng hoá có “chứa yếu tố” xâm phạm đến quyền tác giả, quyền liên quan; sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, KDCN, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và giống cây trồng.

Như vậy sự khác nhau về đối tượng giữa hai loại hàng hoá nói trên đó là: đối tượng của hàng hoá giả mạo về SHTT hẹp hơn rất nhiều so với đối tượng của hàng hoá xâm phạm quyền SHTT, có thể tạm gọi bao gồm ba đối tượng đó là nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý và đối tượng bản quyền. Trong khi đó đối tượng của hàng hoá xâm phạm quyền SHTT rất rộng, hầu hết các đối tượng SHTT đều có thể trở thành đối tượng của hàng hoá xâm phạm quyền SHTT. Cụ thể bao gồm các đối tượng được quy định trong Nghị định 105 nói trên là các đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan, sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, KDCN, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và giống cây trồng. Ngoài ra, với những quy định về đối tượng của hàng hoá giả mạo về SHTT và hàng hoá xâm phạm quyền SHTT như vậy, chúng ta nhận thấy một số vấn đề như sau:

- Thứ nhất, tất cả các đối tượng của hàng hoá giả mạo về SHTT đều có thể trở thành đối tượng của hàng hoá xâm phạm quyền SHTT nhưng không phải đối tượng của hàng hoá xâm phạm quyền SHTT nào cũng có thể trở thành đối tượng của hàng hoá giả mạo về SHTT. Hay nói một cách khác, đối tượng của hàng hoá giả mạo về SHTT là một phần nằm trong đối tượng của hàng hoá xâm phạm quyền SHTT.

- Thứ hai, đối tượng của hàng hoá giả mạo về SHTT hiện nay hoàn toàn khác biệt so với các đối tượng của “hàng giả” được quy định trong Thông tư 10/2000/TTLT-BTM-BTC-BCA-BKHCNMT trước đây. Hiện nay, Luật SHTT chỉ điều chỉnh các đối tượng hàng hoá giả mạo trong lĩnh vực SHTT, không điều chỉnh các đối tượng hàng hoá giả mạo khác (ví dụ như hàng hoá giả mạo về chất lượng, công dụng...) như trong Thông tư 10 nói trên.

- Thứ ba, hiện nay Luật SHTT cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này không coi KDCN là đối tượng có thể bị giả mạo về SHTT. Tôi cho rằng sẽ có không ít người đặt câu hỏi tại sao KDCN lại không phải là đối tượng

của hàng hoá giả mạo về SHTT? phải chăng các nhà làm luật cho rằng không thể làm giả mạo về SHTT đối với KDCN? mà KDCN chỉ có thể là đối tượng của hàng hoá xâm phạm quyền SHTT? nếu đúng như vậy thì căn cứ nào để cho rằng KDCN không thể bị làm giả mạo về SHTT? trong khi thực tế có không ít vụ vi phạm về KDCN.

Dưới đây xin trình bày sự khác biệt về mặt dấu hiệu giữa hai loại hàng hoá này là hàng hoá giả mạo về SHCN với hàng hoá xâm phạm quyền SHCN.

Sự khác biệt giữa hàng hoá giả mạo về SHCN với hàng hoá xâm phạm quyền SHCN.

a. Về hàng hoá giả mạo về SHCN.


- Theo quy định tại Điều 213 của Luật SHTT, hàng hoá giả mạo về SHTT bao gồm hàng hoá giả mạo nhãn hiệu, giả mạo chỉ dẫn địa lý và hàng hoá sao chép lậu, trong đó: “hàng hoá giả mạo nhãn hiệu là hàng hoá, bao bì của hàng hoá có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý...”

- Cũng về hàng hoá giả mạo về SHTT, tại khoản 5 Điều 11 Nghị định 105 nói trên có quy định: “Trường hợp sản phẩm, dịch vụ mang dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt về tổng thể cấu tạo và cách trình bày so với nhãn hiệu được bảo hộ cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại thuộc phạm vi bảo hộ thì bị coi là hàng hoá giả mạo nhãn hiệu theo quy định tại Điều 213 của Luật SHTT”.

- Ngoài ra, tại khoản 4 Điều 12 Nghị định 105 nói trên cũng có quy định: “Trường hợp sản phẩm mang dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt về tổng thể cấu tạo và cách trình bày so với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm cùng loại thuộc phạm vi bảo hộ thì bị coi là hàng hoá giả mạo chỉ dẫn địa lý quy định tại Điều 213 của Luật SHTT”.

b. Về hàng hoá xâm phạm quyền SHCN.

Xem tất cả 161 trang.

Ngày đăng: 29/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí