Xác Định Thiệt Hại Do Hành Vi Xâm Phạm Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Theo Quy Định Của Pháp Luật.

hợp pháp hay không, cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự [14].

Theo quy định tại Điều 203 Luật Sở hữu trí tuệ thì: “Nguyên đơn và bị đơn trong vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có quyền và nghĩa vụ chứng minh theo quy định tại Điều 79 của BLTTDS và theo quy định tại Điều này” (Điều 203.1 Luật SHTT) [17]. Như vậy, một trong những quyền và nghĩa vụ đầu tiên của chủ sở hữu quyền và của người vi phạm quyền là quyền và nghĩa vụ chứng minh đã được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự: “đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp”.(khoản 1, Điều 79, BLTTDS).

Đối với nguyên đơn: theo quy định tại khoản 2 Điều 203 của Luật Sở hữu trí tuệ, để chứng minh là chủ thể của quyền sở hữu công nghiệp, nguyên đơn phải đưa ra một trong các chứng cứ sau đây: Văn bằng bảo hộ, Sổ đăng ký quốc gia về sở hữu công nghiệp, chứng cứ cần thiết để chứng minh quyền đối với bí mật kinh doanh, tên thương mại, nhãn hiệu nổi tiếng; bản sao hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp trong trường hợp quyền sử dụng được chuyển giao theo hợp đồng.

Ngoài ra nguyên đơn phải cung cấp các chứng cứ về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh (khoản 3 Điều 203 Luật SHTT). Theo quy định tại Điều 25 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP thì các tài liệu, hiện vật sau được coi là chứng cứ chứng minh hành vi xâm phạm quyền SHCN: bản gốc hoặc bản sao hợp pháp tài liệu mô tả, mẫu vật, hiện vật có liên quan thể hiện đối tượng được bảo hộ; Vật mẫu, hiện vật có liên quan, ảnh chụp, bản ghi hình sản phẩm bị xem xét; bản giải trình, so sánh giữa sản phẩm bị xem xét với đối tượng được bảo hộ; biên bản, lời khai, tài liệu khác nhằm chứng minh xâm phạm [8].

Đối với bị đơn: theo quy định tại khoản 2 Điều 79 BLTTDS thì:

“đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh

sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh” (Điều 79.2 BLTTDS). Theo quy định trên, khoản 4, 5 Điều 203 của Luật SHTT quy định: “trong vụ kiện về xâm phạm quyền đối với sáng chế là một quy trình sản xuất sản phẩm, bị đơn phải chứng minh sản phẩm của mình được sản xuất theo một quy trình khác với quy trình được bảo hộ; trong trường hợp sau đây: i) sản phẩm được sản xuất theo quy trình được bảo hộ là sản phẩm mới; ii) sản phẩm được sản xuất theo quy trình được bảo hộ không phải là sản phẩm mới nhưng chủ sở hữu sáng chế cho rằng sản phẩm do bị đơn sản xuất là theo quy trình được bảo hộ và mặc dù đã sử dụng các biện pháp thích hợp nhưng vẫn không thể xác định được quy trình do bị đơn sử dụng”. Trường hợp một bên trong vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ chứng minh được chứng cứ thích hợp để chứng minh cho yêu cầu của mình bị bên kia kiểm soát do đó không thể tiếp cận được thì có quyền yêu cầu tòa án buộc bên kiểm soát chứng cứ phải đưa ra chứng cứ đó” [17]. Đây là sự nội luật hóa quy định trong Hiệp định TRIPs: cách thu thập chứng cứ đang nằm trong sự kiểm soát của phía bên kia rằng khi một bên trong vụ kiện đã đưa ra những chứng cứ có thể có được một cách hợp lý đủ để làm căn cứ cho yêu cầu của mình đang do phía bên kia kiểm soát, thì cơ quan xét xử phải có quyền bắt buộc phía bên kia đưa ra những chứng cứ đó ( khoản 1 Điều 43 Hiệp định TRIPs) [28].

2.3.3. Xác định thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật.

Theo quy định tại khoản 6 Điều 203 Luật Sở hữu trí tuệ thì: “trong trường hợp có yêu cầu bồi thường thiệt hại thì nguyên đơn phải chứng minh thiệt hại thực tế đã xẩy ra và nêu căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 205 của Luật Sở hữu trí tuệ”.

Thiệt hại được xác định theo quy định tại Điều 204 Luật Sở hữu trí tuệ gồm có: i) thiệt hại về vật chất bao gồm các tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về kinh doanh, chi phí hợp lý để

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

ngăn chặn, khắc phục thiệt hại; ii) thiệt hại về tinh thần bao gồm các tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho tác giả của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng. iii) Mức độ thiệt hại được xác định trên cơ sở các tổn thất thực tế mà chủ thể QSHCN phải chịu do hành vi xâm phạm QSHTT gây ra.

Về nguyên tắc xác định thiệt hại do xâm phạm QSHTT, Hiệp định TRIPs yêu cầu các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh cho bên vi phạm đền bù cho chủ thể quyền một cách thích đáng, đủ bù lại những thiệt hại mà chủ thể quyền đã phải chịu (khoản 1, Điều 45), ngoài ra còn bắt buộc người vi phạm quyền phải trả cho chủ thể quyền các chi phí của chủ thể quyền và trong các trường hợp thích hợp, các nước thành viên có thể cho phép cơ quan xét xử được quyền ra lệnh thu hồi các khoản lợi nhuận và/hoặc trả các khoản đền bù thiệt hại ấn định trước, kể cả trong trường hợp người xâm phạm không biết hoặc không có căn cứ để biết hành vi xâm phạm (khoản 2 Điều 45, Hiệp định TRIPs).

Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự - 8

Trên các nguyên tắc chung về bồi thường thiệt hại của BLDS, các căn cứ để xác định mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm QSHTT được Luật SHTT quy định là trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm QSHTT đã gây thiệt hại về vật chất cho mình thì có quyền yêu cầu Tòa án quyết định mức bồi thường theo một trong các căn cứ: tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền cộng với khoản lợi nhuận mà bị đơn đã thu được do thực hiện hành vi xâm phạm QSHCN, nếu khoản lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại vật chất; giá chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHCN với giả định bị đơn được nguyên đơn chuyển giao quyền sử dụng đối tượng đó theo hợp đồng sử dụng đối tượng SHCN trong phạm vi tương ứng với hành vi xâm phạm đã thực hiện; trong trường hợp không thể xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất theo các căn cứ quy định trên thì mức bồi thường thiệt

hại về vật chất do Tòa án ấn định, tùy thuộc vào mức độ thiệt hại nhưng không quá năm trăm triệu đồng. Trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm QSHCN đã gây ra thiệt hại về tinh thần cho mình thì có quyền yêu cầu Tòa án quyết định mức bồi thường trong giới hạn từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tùy thuộc vào mức độ thiệt hại. Ngoài bồi thường thiệt hại, chủ thể QSHCN có quyền yêu cầu Tòa án buộc tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm QSHCN phải thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư. Tuy nhiên, theo pháp luật tố tụng của Việt Nam, một trong các quyền và nghĩa vụ quan trọng của chủ sở hữu quyền là: trong trường hợp có yêu cầu bồi thường thiệt hại thì nguyên đơn phải chứng minh thiệt hại thực tế đã xảy ra và nêu căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại.

Có thể thấy rằng, quy định về nguyên tắc và căn cứ xác định thiệt hại trong Luật SHTT là một điểm mới, đồng thời cũng là bước ngoặt đặc biệt quan trọng nhằm bổ sung khoảng trống về vấn đề này trong BLDS trước đây. Mặc dù vậy đây cũng chỉ dừng lại ở các quy định mang tính nguyên tắc, trong thực tế, việc xác định thiệt hại do hành vi xâm phạm QSHCN để áp dụng mức bồi thường thích hợp là vấn đề phức tạp. Trên thực tế, để có thể coi “giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh” là thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền SHCN, chúng ta cần phải chứng minh được mối quan hệ nhân quả giữa những thiệt hại đó với hành vi xâm phạm quyền. Giả thiết đặt ra là trong trường hợp không có hành vi xâm phạm QSHCN thì việc sản xuất, kinh doanh sản phẩm, dịch vụ của chủ sở hữu các đối tượng SHCN có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố nhu cầu thị trường, các nguồn tư liệu sản xuất hay cạnh tranh của các đối thủ khác hay không. Đây là những yếu tố chi phối thường xuyên tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào. Việc sụt giảm doanh thu có thể là do sự gia tăng thị phần của các đối thủ cạnh tranh, thậm chí có thể thay đổi do chính sách quản lý chung của nhà nước, không nhất thiết phải do sự tác

động của hành vi xâm phạm. Nghĩa vụ chứng minh trong trường hợp này đương nhiên sẽ thuộc về chủ sở hữu các đối tượng SHCN và họ buộc phải chứng minh được sự sụt giảm doanh thu trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của họ không phải do sự tác động của những yếu tố khách quan đã nêu. Mặt khác, chúng ta đều có thể thấy một thực tế là bất kỳ một chủ thể kinh doanh nào cũng phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế thu nhập đối với nhà nước. Trước khi bị Toà án tuyên là xâm phạm QSHCN và phải bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu các đối tượng QSHCN, rất có thể những doanh nghiệp này (nhất là những trường hợp vô ý vi phạm) cũng đã phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với nhà nước. Như vậy, việc bồi hoàn lợi nhuận thu được từ việc xâm phạm QSHCN sẽ là lợi nhuận trước thuế hay sau thuế, ngoài ra, trên thực tế doanh nghiệp có thể có nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh khác nhau, như vậy một nguyên tắc cũng cần được đặt ra là phải có sự phân định rõ giữa lợi nhận thu được từ hành vi xâm phạm QSHCN với lợi nhuận thu được từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp khác [47].

2.3.4. Về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Khi phát hiện vi phạm, chủ sở hữu QSHCN thường muốn có ngay được các biện pháp hữu hiệu cần thiết, nhanh chóng nhất để ngăn chặn một cách kịp thời, có hiệu quả các hành vi vi phạm quyền, lợi ích chính đáng của mình, tức là muốn hành động để chấm dứt ngay lập tức hành vi vi phạm quyền SHCN. Điều 50 của hiệp định TRIPs quy định các biện pháp khẩn cấp tạm thời như sau: “a) các cơ quan xét xử cũng phải có quyền ra lệnh áp dụng một cách khẩn cấp và hữu hiệu các biện pháp tạm thời: a, nhằm ngăn chặn hành vi vi phạm bất kỳ loại QSHTT nào và đặc biệt ngăn chặn hàng hóa nhập khẩu vào các kênh thương mại thuộc phạm vi quyền hạn của mình ngay sau khi hoàn thành thủ tục hải quan; b) nhằm bảo tồn các chứng cứ liên quan đến hành vi bị khiếu kiện là vi phạm QSHTT”. Hiệp định TRIPS còn quy định về lệnh áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời

theo yêu cầu của một bên: “Trong trường hợp cần thiết, đặc biệt, nếu bất kỳ một sự chậm chễ nào cũng có nguy cơ gây hậu quả không khắc phục được cho chủ thể quyền, hoặc nếu có thể thấy rằng chứng cứ có nguy cơ bị thủ tiêu, cơ quan xét xử cũng phải có quyền ra lệnh áp dụng các biện pháp tạm thời trước khi nghe bị đơn trình bày ý kiến”. Như vậy, Hiệp định TRIPs đặt nghĩa vụ cho các nước thành viên phải ngăn chặn hành vi xâm phạm bất kỳ QSHTT nào và lưu giữ những chứng cứ có liên quan đến hành vi bị coi là vi phạm; trong trường hợp mà có bất kỳ sự chậm chễ nào có thể gây ra những thiệt hại không thể khắc phục được cho chủ thể quyền, hoặc khi có những nguy cơ rõ ràng rằng các chứng cứ đang bị phá hủy (khoản 2, Điều 50).

Tại Điều 13 chương II Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ yêu cầu: Tòa án phải được phép ra “lệnh áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời một cách có hiệu quả và ngay lập tức” để ngăn chặn nguy cơ xâm phạm các QSHTT và bảo vệ chứng cứ liên quan. Điều này dễ hiểu bởi thông thường khi phát hiện vi phạm, chủ sở hữu QSHCN muốn có ngay được những biện pháp hữu hiệu cần thiết, nhanh chóng nhất để ngăn chặn một cách tạm thời, có hiệu quả các hành vi vi phạm quyền, tức là phải có hành động chấm dứt ngay lập tức hành vi vi phạm quyền. Để đáp ứng yêu cầu này, Điều 206 Luật SHTT quy định: “khi khởi kiện hoặc sau khi khởi kiện, chủ thể QSHTT có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong các trường hợp sau đây: a) đang có nguy cơ xẩy ra thiệt hại không thể khắc phục được cho chủ thể QSHTT; b) hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm QSHTT hoặc chứng cứ liên quan đến hành vi xâm phạm QSHTT có nguy cơ bị tẩu tán hoặc bị tiêu hủy nếu không được bảo vệ kịp thời”.

Về các thủ tục tiếp theo, khoản 4 và 5 Điều 50 của TRIPs quy định: “Trường hợp đã ra lệnh áp dụng biện pháp tạm thời trước khi nghe bị đơn trình bày ý kiến, bên bị áp dụng biện pháp tạm thời phải được thông báo ngay, chậm nhất là sau khi thi hành các biện pháp đó. Trong một thời gian

hợp lý kể từ khi thông báo lệnh áp dụng các biện pháp tạm thời, căn cứ vào yêu cầu của bị đơn, lệnh áp dụng biện pháp tạm thời phải được xem xét lại, trong đó có cả việc nghe bị đơn trình bày ý kiến để đi đến quyết định sửa đổi, hủy bỏ hoặc giữ nguyên các biện pháp đó. Nguyên dơn có thể được cơ quan sẽ thi hành biện pháp tạm thời yêu cầu cung cấp thông tin khác cần thiết để xác định hàng hóa có liên quan”.

Điều 207 Luật SHTT quy định các biện pháp khẩn cấp tạm thời bao gồm: thu giữ, kê biên, niêm phong, cấm thay đổi hiện trạng, cấm di chuyển, cấm dịch chuyển quyền sở hữu. Như vậy, so với quy định tại BLTTDS năm 2004 thì chủ thể quyền trong Luật SHTT có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi khởi kiện hoặc sau khi khởi kiện. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 206 của Luật SHTT thì: “Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của chủ thể QSHTT quy định tại khoản 1 điều này trước khi nghe ý kiến của bên bị áp dụng biện pháp đó” [17]. Đây là quy định có tính chất đặc thù của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong vụ án liên quan đến QSHTT.

Trong trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng và gây thiệt hại cho bên bị yêu cầu áp dụng lệnh thì người yêu cầu phải bồi thường thiệt hại, Hiệp định TRIPs gọi đó là “bồi thường cho bị đơn”. Khoản 3 Điều 50 Hiệp định TRIPs quy định: “các cơ quan xét xử cũng phải có quyền yêu cầu nguyên đơn cung cấp bất kỳ chứng cứ nào có thể có được một cách hợp lý, đủ sức thuyết phục rằng nguyên đơn là chủ thể quyền và quyền của nguyên đơn đang bị hoặc rõ ràng có nguy cơ bị vi phạm và buộc nguyên đơn phải nộp khoản bảo đảm hoặc bảo chứng tương đương để bảo vệ bị đơn và ngăn chặn sự lạm dụng”. Tương tự, tại đoạn 2 Điều 13 chương II của BTA quy định: Mỗi bên cho phép các cơ quan xét xử của mình được yêu cầu người nộp đơn phải nộp một khoản bảo chứng hoặc bảo đảm tương đương đủ để bảo vệ lợi ích của bị đơn và ngăn ngừa sự lạm dụng [30]. Phù hợp với yêu cầu này, tại khoản 4 Điều 117 BLTTDS và

hướng dẫn tại Mục 7 của Nghị quyết số 02/2005 thì chỉ được phong tỏa tài khoản, tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện [11]. Điều 208 Luật SHTT cũng đã quy định nghĩa vụ của người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời như sau: người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại gây ra cho người bị áp dụng biện pháp đó trong trường hợp người đó không xâm phạm QSHTT. Để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ này, người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nộp khoản bảo đảm bằng một trong các hình thức: khoản tiền bằng 20% giá trị hàng hóa cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc tối thiểu hai mươi triệu đồng nếu không thể xác định được giá trị hàng hóa đó; chứng từ bảo lãnh của ngân hàng hoặc của tổ chức tín dụng khác. Việc bồi thường do hành vi xâm phạm QSHTT gây ra được thực hiện theo nguyên tắc chung của BLDS, tức là phải có thiệt hại xảy ra, có lỗi, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và hậu quả xẩy ra.

Theo quy định tại Điều 209 Luật SHTT thì Tòa án ra quyết định hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng trong các trường hợp: người yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đề nghị hủy bỏ; người phải thi hành quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nộp tài sản hoặc có người khác thực hiện biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ đối với bên có yêu cầu; nghĩa vụ chấm dứt theo quy định của BLDS; trường hợp người bị áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời chứng minh được việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là không có căn cứ xác đáng. Trường hợp hủy bỏ áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, Tòa án phải xem xét để trả lại cho người yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khoản bảo đảm quy định tại khoản 2 Điều 208. Trường hợp yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời không có căn cứ xác đáng và gây thiệt hại cho người bị áp áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án buộc người yêu cầu phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, theo Điều

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 11/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí