số văn bản có liên quan đến việc điều chỉnh chỉ dẫn thương mại cụ thể là về nhãn hiệu như Luật 13/57 ban hành ngày 01.08.1947 quy định về nhãn hiệu chế tạo và thương hiệu, Luật 14/59 ngày 11.06.1959 về chống hàng giả. Việc ban hành các văn bản trên cho thấy chính quyền ngụy quyền Sài Gòn đã thừa nhận quyền sở hữu đối với nhãn hiệu là quyền tư hữu và cần có những biện pháp bảo vệ.
Giai đoạn 1975 -1986, việc bảo hộ các đối tượng của QSHCN cho các chủ thể quyền sở hữu công nghiệp chưa được coi trọng. Chủ thể QSHCN không được độc quyền khai thác các đối tượng của quyền sở hữu công QSHCN, lợi ích mà các chủ thể này có được chủ yếu về mặt tinh thần và việc bảo hộ được thiết lập theo mô hình của các nước xã hội chủ nghĩa. Đến đầu những năm 80, Chính phủ đã ban hành một số Nghị định về bảo hộ SHCN như: Nghị định 31/CP ngày 23/01/1981 về bảo hộ sáng chế; Nghị định 197/HĐBT ngày 14/12/1982 về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa; Nghị định số 85/HĐBT ngày 13/5/1988 về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp; Nghị định số 200/HĐBT ngày 28/12/1988 về giải pháp hữu ích. Theo nội dung của các nghị định nêu trên thì mọi hành vi xâm phạm độc quyền của chủ văn bản đều bị xử lý theo pháp luật. Người xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm, bồi thường thiệt hại cho chủ văn bằng và chịu hình thức xử phạt khác tủy theo mức độ xâm phạm. Chủ văn bằng bảo hộ khi phát hiện hành vi xâm phạm độc quyền của mình, có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền, yêu cầu nguời xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm.
Trong trường hợp tự xét thấy mức độ xâm phạm gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đề nghị của mình đến cơ quan có trách nhiệm không được giải quyết thỏa đáng, thì chủ văn bằng có quyền khiếu nại lên Tòa án nhân dân có thẩm quyền.
Giai đoạn 1986- 1995: Đây là giai đoạn Việt Nam bước sang thời kỳ đổi mới với sự mở cửa nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những chính sách đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được triển khai đồng bộ và mạnh mẽ, nền kinh tế thị trường được khuyến khích mở rộng, được hỗ trợ bằng những chính sách hữu hiệu để phát triển. Theo đó, các hoạt động kinh tế đối ngoại được coi trọng, việc bảo hộ SHCN là nhu cầu bức xúc của mọi cá nhân, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế và hình thức sở hữu khác nhau được thừa nhận tồn tại ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn này, các văn bản có quy định liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại bao gồm:
Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp được Hội đồng nhà nước thông qua ngày 28 tháng 1 năm 1989 đã chính thức sử dụng khái niệm “sở hữu công nghiệp”, thừa nhận sở hữu công nghiệp là quyền tư hữu [12]. Sự ra đời của Pháp lệnh đã tạo sự chuyển biến sâu sắc của pháp luật về bảo hộ QSHCN. Kế thừa các quy định của các văn bản trước đó, các quy định trong Pháp lệnh đã thừa nhận quyền tự bảo vệ của các chủ thể quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại cũng như quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại. Quy định về việc giải quyết khiếu nại tranh chấp, xử lý vi phạm quyền sở hữu công nghiệp được thể hiện trong Chương IV. Mặc dù Pháp lệnh chưa quy định một cách chi tiết, cụ thể nhưng đã bước đầu đề cập đến các biện pháp áp dụng điều chỉnh đối với hành vi vi phạm quyền sở hữu chỉ dẫn thương mại vàQSHCN, là cơ sở pháp lý ban đầu cho việc bảo vệ quyền sở hữu đối với chỉ dẫn thương mại.
Sau khi Pháp lệnh Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp ra đời, TANDTC ban hành Thông tư số 3/NCPL ngày 22 tháng 7 năm 1989 hướng dẫn xét xử
một số tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp trong đó có chỉ dẫn thương mại. Thông tư quy định về những loại việc thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án, quy định các thủ tục tố tụng và quyền hạn của tòa án khi xét xử những vụ án trên.
Giai đoạn 1995 đến nay: Đây là giai đoạn phát triển mạnh nhất của các quy định pháp luật sở hữu trí tuệ, trong đó pháp luật bảo vệ QSHCN chiếm một phần quan trọng. Bắt đầu là Bộ luật Dân sự 1995, Bộ luật dành 1 chương về sở hữu công nghiệp trong đó có một số quy định về chỉ dẫn thương mại. Các quy định này mang tính cơ sở, khái quát.
Sau khi BLDS ra đời, nhằm đáp ứng quá trình hội nhập của Việt Nam và thể chế hóa các quy định về bảo hộ QSHCN trong BLDS, xác định hành vi xâm phạm đối với các đối tượng QSHCN [3], chúng ta đã ban hành một số văn bản: Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiếp; Nghị định số 06/CP ngày 01/02/2001 sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 63/CP; Nghị định số 54/2000/NĐ – CP ngày 24/10/2000 về bảo hộ QSHCN đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến SHCN. Các văn bản này đã có tác dụng tích cực trong việc chuyển hóa các quy định chung của Bộ luật Dân sự về SHCN đối với chỉ dẫn thương mại.
Ngoài việc ban hành các văn bản pháp luật nêu trên, Việt Nam đã tích cực tham gia các điều ước quốc tế trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp như: Công ước Paris 1883 về bảo hộ sở hữu công nghiệp; Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa; Công ước Stockholm về Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), Hiệp định về bảo hộ sở hữu trí tuệ với Liên bang Thụy Sĩ, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA)…
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Niệm Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Và Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Bằng Biện Pháp Dân Sự
- Vai Trò, Ý Nghĩa Của Việc Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Chỉ Dẫn Thương Mại Bằng Biện Pháp Dân Sự
- Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Chỉ Dẫn Thương Mại Bằng Biện Pháp Dân Sự Theo Các Điều Ước Quốc Tế.
- Hành Vi Xâm Phạm Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Tên Thương Mại
- Thẩm Quyền Và Trình Tự Thủ Tục Xử Lý Hành Vi Xâm Phạm Bằng Biện Pháp Dân Sự
- Xác Định Thiệt Hại Và Mức Bồi Thường Thiệt Hại Do Hành Vi Xâm Phạm Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Chỉ Dẫn Thương Mại
Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.
Đặc biệt khi quyền sở hữu trí tuệ đã trở thành yếu tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, đứng trước yêu cầu hội nhập sâu, rộng,
ngày 29/11/2005, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật sở hữu trí tuệ (có hiệu lực từ ngày 01/7/2005), trong đó vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ được đặc biệt quan tâm. Lần đầu tiên thuật ngữ “bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ” đã được sử dụng chính thức trong luật và có hẳn một chương riêng (Chương
XVII) quy định xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp dân sự [26]. Sở dĩ có hẳn một chương như vậy và có quy định rõ ràng là do nước ta phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện để thực hiện đúng theo thông lệ quốc tế và tiêu chuẩn của WTO khi gia nhập tổ chức này. Luật quy định các nội dung về quyền tự bảo vệ của chủ sở hữu chỉ dẫn thương mại, các biện pháp xử lý về hành chính, dân sự, hình sự, hành vi xâm phạm QSHCN đối với chỉ dẫn thương mại trong đó Luật đã đề cao khía cạnh dân sự của quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu đối với chỉ dẫn thương mại nói riêng thông qua các quy định về xử lý các hành vi xâm phạm quyền bằng biện pháp dân sự. Các vi phạm về quyền sở hữu trí tuệ cũng như quyền sở hữu đối với chỉ dẫn thương mại xử lý tại tòa dân sự sẽ được xem xét đầy đủ. Đây cũng là sự khẳng định rõ hơn của pháp luật, coi quyền sở hữu trí tuệ (bao gồm quyền sở hữu đối với chỉ dẫn thương mại) là một quyền dân sự (quyền nhân thân, quyền tài sản) mà việc chủ thể quyền yêu cầu toàn dân sự bảo vệ quyền sở hữu của mình bị xâm phạm là một quyền hết sức quan trọng, đồng thời là một công cụ hữu hiệu giúp chủ thể quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình.
Quy định về xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong đó có quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại bằng biện pháp dân sự trong Luật Sở hữu trí tuệ đã nâng cao vai trò của hệ thống cơ quan tư pháp, giảm bớt sự can thiệp của cơ quan hành chính nhà nước vào các vấn đề mang tính dân sự, tránh việc hành chính hóa các quan hệ dân sự.
Thể chế hóa các quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp là một loạt các văn bản dưới luật, như: Nghị định 103/2006/ND- CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp; Nghị định 105/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ (gọi tắt là Nghị
định 105/2006/NĐ- CP); Nghị định 119/2010/NĐ-CP sử a đổi bổ sung môt sô
điều của Nghi ̣điṇ h số 105/2006/NĐ-CP; Nghị định 122/2010/NĐ-CP sử a
đổi, bổ sung môt số Điêù của Nghi ̣điṇ h 103/NĐ-CP...
Như vậy, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại là việc pháp luật quy định các quyền nhân thân và quyền tài sản của các chủ thể quyền đối với đối tượng sở hữu công nghiệp đồng thời quy định các biện pháp nhằm bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp khi có hành vi xâm phạm.QSHCN như trên đã đề cập là quyền dân sự, do vậy theo nguyên tắc chung của pháp luật thì mọi quyền dân sự hợp pháp đều được nhà nước bảo vệ.
2.2. Xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại
Hành vi xâm phạm QSHCN được hiểu là việc cá nhân, tổ chức không phải là chủ sở hữu đối tượng SHCN theo quy định tại các Điều 121, 123 của Luật SHTT mà thực hiện một trong số các hành vi sử dụng đối tượng SHCN đang trong thời hạn bảo hộ quy định tại Điều 124 của Luật SHTT mà không được phép của chủ sở hữu đối tượng SHCN, đồng thời người thực hiện hành vi đó không phải là người có quyề sử dụng trước quy định tại Điều 134 của Luật SHTT và các hành vi sử dụng nói trên không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2, 3 Điều 125 Luật SHTT.
Theo Điều 5 Nghị định số 105/2006/NĐ- CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật SHTT về bảo hộ quyền SHTT và quản lý
Nhà nước về SHTT, việc xác định một hành vi là hành vi xâm phạm QSHCN phải có đầy đủ các căn cứ sau:Đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ QSHCN theo quy định của luật SHTT và Nghị định số 103/2006/NDD-CP; Có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét; Người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể quyền SHTT và không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy định…;Hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam, hành vi bị xem xét cũng được coi là xảy ra tại Việt Nam nếu hành vi đó xảy ra trên mạng Internet nhưng nhằm vào người tiêu dùng tại Việt Nam.
2.2.1. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Quy định các hành vi bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu là cơ sở cao nhất cho việc bảo đảm thực thi quyền, trên cơ sở đó các luật khác quy định về thủ tục và thẩm quyền bảo đảm thực thi quyền đối với nhãn hiệu.
Theo khoản 16 Điều 4 Luật SHTT: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau” [18, Điều 4]. Vì thế, mục đích đầu tiên của việc sử dụng nhãn hiệu là để phân biệt sản phẩm, dịch vụ. Một nhãn hiệu khi có được uy tín, chất lượng cao thì khả năng bị xâm phạm quyền càng lớn. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được hiểu là việc sử dụng nhãn hiệu trong phạm vi và thời hạn bảo hộ mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu. Theo khoản 1 Điều 129 Luật Sở hữu trí tuệ, những hành vi được thực hiện mà không được phép của chủ sở hữu thì bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu. Các hành vi quy định tại điều này có thể phân thành 2 nhóm.
* Nhóm thứ nhất, các hành vi sử dụng nhãn hiệu thuộc độc quyền của chủ sở hữu được thực hiện bởi người thứ ba mà không được sự cho phép của chủ sở hữu. Các hành vi xâm phạm đối với nhãn hiệu theo nhóm này bao gồm:
- Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ trùng với hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó.
Trường hợp này giữa nhãn hiệu đã được bảo hộ và nhãn hiệu vi phạm là hoàn toàn giống nhau sử dụng cho sản phẩm hay dịch vụ trung nhau. Hành vi này nếu không được phép của chủ thể quyền thì bị coi là vi phạm.
- Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ tương tự hoặc liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ;
Ở đây, hành vi xâm phạm quyền được thực hiện thông qua sử dụng nhãn hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho sản phẩm, dịch vụ khác với sản phẩm, dịch vụ mang nhãn hiệu bảo hộ. Tuy nhiên, giữa các sản phẩm, dịch vụ này có sự liên quan mật thiết với nhau nên dễ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc, xuất xứ của sản phẩm, dịch vụ đó.
- Sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ trùng, tương tự hoặc liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ;
* Nhóm thứ hai, các hành vi sử dụng không thuộc độc quyền của chủ sở hữu nhưng gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu và gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Theo quy định này, quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu được mở rộng nhất nhằm bảo vệ quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng.
- Sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng hoặc dấu hiệu dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hoá, dịch vụ bất kỳ, kể cả hàng hoá, dịch vụ không trùng, không tương tự và không liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục hàng hoá, dịch vụ mang nhãn
hiệu nổi tiếng, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.
So với pháp luật thế giới, vấn đề này được các nước quy định khá tương đồng trên nền tảng chung Hiệp định TRIPs.
Ngoài những hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu được liệt kê cụ thể tại Điều 129, Điều 130 Luật sở hữu trí tuệ 2005 còn quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh xâm phạm QSHCN đối với nhãn hiệu gây ảnh hưởng xấu cho chủ sở hữu nhãn hiệu, đó là:
- Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ;
- Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ;
- Sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên, nếu người sử dụng là người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng;
- Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu.
Những trường hợp trên mặc dù có biểu hiện của việc xâm phạm quyền sở hữu đối với nhãn hiệu nhưng căn cứ vào tính chất và mức độ vi phạm nên được quy định là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Khoản 3 Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định rằng các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được điều chỉnh