Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính, hình sự và kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu công nghiệp - 8

Trưởng phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ thuộc Công an tỉnh, Cục trưởng Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ có quyền xử phạt các hành vi vi phạm về SHCN theo quy tại khoản 5 với mức phạt tiền tối đa lên đến 10 triệu đồng và tại khoản 7 Điều 31 của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính với mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực SHCN (5 lần giá trị hàng hóa vi phạm bị phát hiện).

Công an kinh tế bao gồm Phòng cảnh sát kinh tế, giám đốc công an tỉnh, và cục trưởng cục cảnh sát kinh tế, có quyền điều tra và xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT trong tất cả các lĩnh vực sản xuất và kinh doanh. Cảnh sát kinh tế có thể khám xét nhà của người bị coi là cất dấu các phương tiện liên quan hoặc bằng chứng của vụ xâm phạm, và đình chỉ hiệu lực giấy phép kinh doanh trong trường hợp vi phạm nghiêm trọng các quy định về sử dụng giấy phép kinh doanh. Các quy định như vậy đã được nêu trong Nghị định 12 và Nghị định số 31/2001/NĐ-CP ngày 26/6/2001 và tiếp tục được tiếp thu chỉnh sửa đưa vào Nghị định 106. Cũng theo Nghị định 106 nếu hành vi vi phạm vượt quá thẩm quyền của Chánh Thanh tra Sở Khoa học và Công nghệ, Chi cục trưởng Quản lý thị trường, Cục trưởng Cục Hải quan thì chuyển hồ sơ vi phạm cho chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xử lý theo thẩm quyền.

Trong những năm gần đây, việc nâng cao năng lực thực thi quyền SHTT đã trở thành một trong những mối quan tâm lớn của Chính phủ. “Dự án về nâng cao hiệu quả thực thi quyền sở hữu trí tuệ” cũng đã được xây dựng. Dự án sẽ thiết lập một hệ thống thông tin nhằm hỗ trợ các cơ quan có thẩm quyền trong việc điều tra, kiểm soát và xử lý các hành vi xâm phạm quyền SHTT, và một kênh thông tin và diễn đàn liên ngành để cung cấp và trao đổi thông tin và kinh nghiệm trong việc áp dụng các chế tài và các hình thức xâm phạm. Các kế hoạch nhằm phát triển hoạt động thống kê và một hệ thống đánh giá chung về xâm phạm quyền SHTT để bảo đảm sự phối hợp tốt giữa các cơ quan thực thi.

c) Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính

Thủ tục XPVPHC được đặt ra khi chính các cơ quan có thẩm quyền xử phạt phát hiện hành vi xâm phạm quyền SHCN hoặc qua đơn tố cáo, đơn yêu cầu xử lý của tổ chức, cá nhân.

Khi tiếp nhận đơn cơ quan này có trách nhiệm xem xét vụ việc để xác định thẩm quyền xử phạt và ghi nhận các giấy tờ, tài liệu, chứng cứ kèm theo.

Để yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm SHCN cũng như áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt người nộp đơn phải nộp đơn yêu cầu cùng với các tài liệu, chứng cứ chứng minh tư cách chủ thể quyền và chứng minh vi phạm. Các thông tin và tài liệu bao gồm:

- Chi tiết về đối tượng SHCN bị vi phạm (tên đối tượng SHCN; số văn bằng hoặc số đăng ký Hợp đồng lixăng trong trường hợp người yêu cầu là bên nhận Lixăng; ngày cấp; thời hạn hiệu lực);

- Bản sao Văn bằng bảo hộ hoặc Giấy chứng nhận đăng ký Hợp đồng lixăng còn trong thời hạn;

- Bộ ảnh chụp hoặc mẫu hàng hóa bị vi phạm để đối chiếu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 161 trang tài liệu này.


Các thông tin và tài liệu chứng minh vi phạm cần cung cấp cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có thể bao gồm, nhưng không giới hạn: Loại hàng hóa, ký hiệu mã lô hàng; Tên, địa chỉ cơ sở vi phạm (địa chỉ trụ sở, nơi sản xuất, kho hàng, địa bàn tiêu thụ ...); Bản mô tả chi tiết và bộ ảnh chụp hoặc mẫu hàng hóa vi phạm; Bản kết luận giám định SHCN đối với hàng hóa vi phạm...

Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính, hình sự và kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu công nghiệp - 8

Trong trường hợp vụ việc thuộc thẩm quyền và có đầy đủ chứng cứ thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xử lý hành vi xâm phạm, trong trường hợp chưa đủ chứng cứ thì cơ quan này có thể tự mình xác minh, kiểm tra, trưng cầu giám định hoặc yêu cầu người nộp đơn cung cấp đủ chứng cứ để xử lý. Nếu vụ việc thuộc thẩm quyền xử lý của nhiều cơ quan khác nhau thì các cơ quan này phải phối hợp xử lý theo đúng qui định của pháp luật. Trong quá trình nộp đơn yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền XPVPHC, người nộp

đơn có thể yêu cầu đồng thời áp dụng các biện pháp ngăn chặn và xử phạt theo qui định tại Điều 215 Luật SHTT bao gồm:


- Tạm giữ người;


- Tạm giữ tang vật, hàng hóa, phương tiện vi phạm;


- Khám người;


- Khám phương tiện vận tải, đồ vật, khám nơi cất giấu hàng hóa, phương tiện, đồ vật vi phạm SHCN.

Ngoài ra, đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu vi phạm hoặc bị nghi ngờ vi phạm quyền SHCN còn có thể bị áp dụng biện pháp tạm dừng làm thủ tục hải quan, kiểm tra và xác định tình trạng pháp lý về SHCN theo qui định của Thông tư liên tịch số 129/2004/TTLT/BTC-BKHCN ngày 29 tháng 12 năm 2004 về kiểm soát biên giới về sở hữu công nghiệp đối với hàng hóa xuất nhập khẩu (“Thông tư 129”). Tuy nhiên, để tránh tình trạng lạm quyền, Nghị định 106 cũng quy định trường hợp cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt không có đủ chứng cứ cần thiết chứng minh thuộc một trong các trường hợp được áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo đảm hoặc áp dụng không phù hợp hoặc không đúng yêu cầu của người yêu cầu áp dụng biện pháp đó thì phải bồi thường thiệt hại cho tổ chức, cá nhân liên quan theo quy định của pháp luật. Bản thân người nộp đơn yêu cầu cơ quan nhà nước tiến hành các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính hoặc áp dụng các biện pháp kiểm soát biên giới về SHCN đối với hàng hóa xuất nhập khẩu phải cam kết hoặc đặt cọc để đảm bảo trách nhiệm bồi thường thiệt hại do yêu cầu áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hoặc kiểm soát biên giới không đúng gây ra cho tổ chức, cá nhân liên quan.

Trong quá trình xử lý đơn, cơ quan xử lý vi phạm hành chính có thể ra thông báo từ chối xử lý vi phạm khi có một trong căn cứ nêu tại Điều 21 Nghị định 106 cụ thể: „„Hết thời hiệu XPVPHC; Người nôp đơn yêu cầu xử lý vi phạm không bổ sung kịp thời các tài liệu, chứng cứ hoặc giải trình về vi phạm

trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được thông báo; Kết quả xác minh cho thấy không có vi phạm như mô tả trong yêu cầu xử lý vi phạm; Có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khẳng định không có căn cứ xử lý vi phạm; Người nộp đơn yêu cầu xử lý có đơn rút yêu cầu xử lý vi phạm hoặc thông báo các bên đã đạt được thỏa thuận giải quyết‟‟.

Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, lợi ích công cộng trước các hành vi sản xuất kinh doanh hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý cơ quan xử lý vi phạm vẫn ra quyết định xử lý theo quy định của pháp luật trong trường hợp nhận được thông báo trên.

Khi phát hiện hành vi sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý và có đầy đủ, rõ ràng chứng cứ thì cơ quan xử lý vi phạm có quyền ngay lập tức ra quyết định đình chỉ hành vi vi phạm và lập biên bản về hành vi vi phạm, tiến hành xử lý theo pháp luật vi phạm hành chính.

Đối với trường hợp áp dụng hình thức phạt cảnh cáo thì không lập biên bản mà quyết định xử lý ngay tại nơi vi phạm, phạt cảnh cáo phải được thể hiện bằng văn bản.

Trường hợp phạt tiền thì phải lập biên bản vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm vi phạm hành chính, trừ trường hợp theo thủ tục đơn giản. Quyết định áp dụng biện pháp hành chính được làm thành văn bản trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày lập biên bản về việc xâm phạm, hoặc 30 ngày đối với các vụ việc phức tạp. Quyết định phải được thông báo cho đối tượng bị xử phạt trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ký, trường hợp việc xử lý vi phạm có liên quan đến thủ tục xác lập, sửa đổi, đình chỉ, hủy bỏ văn bằng bảo hộ, giấy chứng nhận liên quan thì quyết định xử phạt phải được gửi cho Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ, Cục Sở hữu trí tuệ phối hợp theo dõi, thực hiện.

Đối với các trường hợp vi phạm nhưng có tranh chấp, khiếu nại về chủ thể quyền, vấn đề bảo hộ SHCN thì việc giải quyết tranh chấp được thực hiện

tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền trên cơ sở kết luận của cơ quan này, người có thẩm quyền XPVPHC có trách nhiệm kết luận về hành vi vi phạm.

Để đảm bảo xử phạt vi phạm và ngăn chặn hành vi tái phạm, cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và xử lý theo quy định tại các Điều 28, 29, 30 Nghị định 106.

Trường hợp đối tượng bị xử phạt không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận được quyết định thì người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.

Để bảo đảm sự công bằng, ngăn chặn hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ, pháp luật cũng quy định quyền khiếu nại quyết định XPVPHC. Thủ tục khiếu nại được điều chỉnh theo Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 được sửa đổi năm 2006, và Luật Khiếu nại và Tố cáo năm 1998 được sửa đổi năm 2005. Các quyết định hành chính có thể bị khiếu nại bởi bất kỳ bên nào, trước tiên với cơ quan ra quyết định đó, sau đó với cơ quan chủ quản của cơ quan ra quyết định hoặc tòa án hành chính. Các quyết định của cơ quan chủ quản có thể bị khiếu nại lên toà án hành chính. Theo các văn bản pháp lý này, các quyết định liên quan đến việc xác lập, duy trì, chấm dứt và huỷ bỏ hiệu lực nhãn hiệu và các quyền SHCN nói chung đã được khiếu nại với Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ, có thể được tiếp tục khiếu nại - theo sự lựa chọn của người khiếu nại - hoặc với Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ hoặc với Tòa Hành chính theo quy định tại Điều 39 của Luật Khiếu nại và Tố cáo. Như vậy, pháp luật hiện hành quy định cơ hội xem xét lại các quyết định hành chính theo cả thủ tục tư pháp lẫn thủ tục hành chính điều này là phù hợp với Hiệp định TRIPS.

Có thể nói Luật SHTT ra đời là một trong những bước tiến lớn đáng kể trong việc cụ thể hoá chủ trương cải cách nền tư pháp cho phù hợp với giai đoạn mới-giai đoạn hội nhập thực sự của Việt Nam với nền kinh tế thế giới. Luật

SHTT ra đời chắc chắn sẽ trở thành nhân tố quan trọng góp phần làm trong sạch môi trường SHTT ở Việt Nam và đây cũng được coi là một trong những yếu tố quan trọng nhằm thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam qua đó góp phần thúc đẩy nền kinh tế của Việt Nam phát triển nhanh hơn, mạnh hơn.

Một trong những mục tiêu trước mắt và cụ thể của Luật SHTT là nhằm giúp cho chủ sở hữu, chủ sử dụng hợp pháp quyền SHTT nói chung và quyền SHCN nói riêng có thể bảo vệ được quyền SHTT của mình một cách tốt hơn. Đồng thời cũng sẽ tạo thuận lợi cho các cơ quan chức năng trong việc quản lý và thực thi quyền SHTT một cách triệt để hơn. Có thể nhận thấy Luật SHTT đã tách bạch một cách khá rõ ràng giữa các nhóm hành vi xâm phạm quyền SHTT bị xử lý bằng biện pháp hành chính. Chúng ta có thể nhận thấy điều này tại Điều 211 của Luật SHTT như đã được đề cập.

Theo đó chỉ những hành vi xâm phạm quyền SHTT được quy định tại Điều 211 nêu trên mới có thể bị xử lý bằng biện pháp hành chính (và được cụ thể hoá tại khoản 2 Điều 1 Nghị định 106), cũng có nghĩa rằng Luật đã xác định được ranh giới giữa các hành vi xâm phạm quyền SHTT được xử lý bằng biện pháp hành chính với các hành vi xâm phạm quyền SHTT bị xử lý bằng biện pháp khác - biện pháp dân sự hoặc biện pháp hình sự. Có thể xem đây là một trong những điểm tiến bộ của Luật SHTT vì việc phân định này tưởng chừng như là một việc bình thường nhưng trên thực tế nó sẽ tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho việc thực thi pháp luật SHTT ở Việt Nam. Cụ thể như sau:

- Trước hết, nó sẽ tạo thuận lợi cho chủ sở hữu, chủ sử dụng hợp pháp quyền SHTT nói chung và quyền SHCN nói riêng có thể bảo vệ được các quyền đó của mình tốt hơn. Đồng thời nó sẽ giúp các cơ quan chức năng đặc biệt là các cơ quan thực thi pháp luật có thể dễ dàng và nhanh chóng thực hiện chức năng của mình khi phát hiện hoặc có yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT bằng biện pháp hành chính, đồng thời nó sẽ giúp cho các cơ quan này tránh được việc hình sự hoá các quan hệ dân sự bởi về nguyên tắc hành vi xâm phạm

quyền SHTT ở mức độ nào thì sẽ phải áp dụng các quy phạm pháp luật phù hợp để điểu chỉnh cho đúng với tình chất và mức độ của hành vi vi phạm đó. Cũng xin nói thêm rằng SHTT là một trong những lĩnh vực mang tính đặc thù và việc xác định hành vi xâm phạm quyền SHTT không dễ dàng như việc xác định các hành vi vi phạm khác. Chính vì vậy việc Luật SHTT xác định rõ các hành vi xâm phạm quyền SHTT được xử lý bằng biện pháp hành chính như vậy là rất quan trọng.

- Việc xác định rõ nhóm các hành vi xâm phạm quyền SHTT được xử lý bằng biện pháp hành chính như vậy sẽ tránh được hiện tượng cùng một hành vi xâm phạm quyền SHTT có tính và mức độ như nhau, nhưng mỗi cơ quan lại xử lý theo cách thức khác nhau. Vấn đề này hiện nay theo quy định của pháp luật hiện hành có rất nhiều cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực SHTT do đó việc xác định rõ nhóm các hành vi xâm phạm quyền SHTT được xử lý bằng biện pháp hành chính sẽ giúp các cơ quan chức năng tìm được “tiếng nói chung” trong việc thực thi pháp luật. Điều này cũng rất quan trọng góp phần tạo nên lòng tin cho nhân dân vào các cơ quan thực thi pháp luật và tránh được lạm quyền trong khi thi hành công vụ.

- Ngoài ra, Luật SHTT xác định rõ các nhóm hành vi xâm phạm quyền SHCN được xử lý bằng biện pháp hành chính như vậy cho thấy Luật SHTT đã nâng cao vị trí, vai trò và luật hoá các trình tự, thủ tục giải quyết xâm phạm quyền SHCN bị xử lý bằng biện pháp dân sự, hình sự tại các cơ quan tố tụng. Đồng thời giảm bớt sự can thiệp của các cơ quan hành chính vào các vấn đề mang tính dân sự, hình sự, tránh việc hành chính hoá các quan hệ dân sự, hình sự cho phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế về lĩnh vực SHTT. Vào thời điểm hiện nay để ổn định nền kinh tế nói chung và môi trường SHTT ở Việt Nam nói riêng, biện pháp xử lý hành chính vẫn đóng một vai trò quan trọng và không thể thiếu trong quá trình xây dựng một nền SHTT trong sạch ở Việt Nam. Và trên thực tế hiện nay biện pháp này vẫn đang được sử dụng chủ yếu trong việc xử lý các vi phạm có liên quan đến SHTT ở Việt Nam bởi các tính ưu việt

của nó như thủ tục đơn giản, ít tốn kém và đặc biệt là vụ việc sẽ được giải quyết rất nhanh gọn như đã trình bày ở trên.

- Một điểm mới nữa là nguyên tắc phạt hành chính vượt quá lợi nhuận thu được do hành vi xâm phạm đã được áp dụng, chức năng của các cơ quan thực thi đã được xác định rõ ràng hơn nhằm tránh các thủ tục phiền hà và chồng chéo, và một cơ quan điều phối hợp đã được thành lập (Điều 200 của Luật SHTT), kết hợp giữa thủ tục và chế tài hành chính với chế tài bồi thường thiệt hại theo thủ tục dân sự và xử lý hình sự đối với hành vi giả mạo nhãn hiệu và ăn cắp bản quyền với quy mô thương mại tạo ra khả năng răn đe như quy định tại Điều 41 của Hiệp định TRIPS, bồi thường thiệt hại cho bị đơn quy định tại Điều 48 và các biện pháp hình sự quy định tại Điều 61 của Hiệp định này.

Các quy định vviệc xử lý hành vi xâm phạm quyền SHCN bằng biện pháp hành chính cho thấy pháp luật đã nâng cao vai trò của chủ sở hữu, chủ sử dụng hợp pháp quyền SHCN trong việc đấu tranh bảo vệ quyền SHCN.

Nghiên cứu các quy định về xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi xâm phạm quyền SHCN trong Luật SHTT thấy chủ sở hữu, chủ sử dụng hợp pháp quyền SHCN có vai trò quan trọng trong việc đấu tranh bảo vệ quyền SHCN. Cụ thể theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 211 Luật SHTT có quy định hành vi xâm phạm quyền SHTT bị xử phạt hành chính khi: Không chấm dứt hành vi xâm phạm quyền SHTT mặc dù đã được chủ thể quyền SHTT thông báo bằng văn bản yêu cầu chấm dứt hành vi đó. Ngoài ra tại Điều 9, Luật này cũng cho phép: tổ chức, cá nhân có quyền áp dụng các biện pháp mà pháp luật cho phép để tự bảo vệ quyền SHCN của mình và có trách nhiệm tôn trọng quyền SHCN của tổ chức, cá nhân khác theo quy định của pháp luật. Quy định này đã đề cao vai trò của chủ sở hữu, chủ sử dụng hợp pháp quyền SHCN trong việc chủ động, tích cực đấu tranh bảo vệ quyền SHCN hơn rất nhiều so với các quy định trước đây. Xin được lưu ý rằng hành vi “thông báo” của chủ sở hữu, chủ sử dụng hợp pháp quyền SHCN tới chủ thể vi phạm được coi là một khâu không thể thiếu, bắt buộc phải có để các cơ quan chức năng xử lý vi phạm hành chính

Xem tất cả 161 trang.

Ngày đăng: 29/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí