đó, mặc dù chúng ta đã có một số công trình nghiên cứu vấn đề hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền SHCN bằng biện pháp hành chính, hình sự và kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu công nghiệp, nhưng cho đến nay, vấn đề này vẫn chưa được nghiên cứu toàn diện và đầy đủ. Chính vì vậy, vấn đề tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính, hình sự và kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu công nghiệp có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với các nhà lý luận và thực tiễn, mà còn đối với cả những người sản xuất, kinh doanh chân chính - chủ sở hữu, người sử dụng hợp pháp các đối tượng SHCN, nhằm làm trong sạch và lành mạnh hoá thị trường; và đây cũng là đòi hỏi tất yếu của xã hội trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế thế giới. Đây chính là lý do để tác giả lựa chọn đề tài: “Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính, hình sự và kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu công nghiệp” nhằm góp thêm một lời bàn về vấn đề này.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn sẽ góp phần làm rõ những vấn đề:
- Nêu ra những điểm mới về bảo vệ quyền SHCN bằng các biện pháp hành chính, hình sự và kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu công nghiệp theo quy định hiện hành;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền SHCN bằng các biện pháp hành chính, hình sự, kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu công nghiệp;
- Phân tích, đánh giá và đưa ra phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ quyền SHCN bằng các biện pháp nêu trên.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Căn cứ vào thực tiễn về bảo vệ quyền SHCN trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam và phân tích, đánh giá các quy định pháp luật trong nước và quốc tế về các biện pháp bảo vệ quyền SHCN đối với các đối
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính, hình sự và kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu công nghiệp - 1
- Khái Niệm Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Bằng Biện Pháp Hành Chính, Hình Sự, Kiểm Soát Hàng Hóa Xuất Khẩu, Nhập Khẩu Liên Quan Đến Sở Hữu Công
- Biện Pháp Kiểm Soát Hàng Hóa Xuất Khẩu, Nhập Khẩu Liên Quan Đến Sở Hữu Công Nghiệp
- Các Quy Định Của Pháp Luật Về Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Bằng Biện Pháp Hành Chính
Xem toàn bộ 161 trang tài liệu này.
tượng SHCN (như sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, NHHH, chỉ dẫn địa lý, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn) bằng các biện pháp hành chính, hình sự và kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp lịch sử;
- Phương pháp thống kê...
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Khái quát chung về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính, hình sự và kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu công nghiệp
Chương 2: Các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính, hình sự và kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu công nghiệp
Chương 3: Thực trạng bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính, hình sự và kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu công nghiệp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP BẰNG BIỆN PHÁP HÀNH CHÍNH, HÌNH SỰ, KIỂM SOÁT HÀNG HÓA XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU LIÊN QUAN ĐẾN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1.1. KHÁI NIỆM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1.1.1. Khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp
Sở hữu công nghiệp được các nước công nghiệp công nhận, sử dụng từ lâu và ngày càng được nhiều nước đang phát triển sử dụng như một phương tiện quan trọng cho việc phát triển công nghệ và kinh tế. Ở nước ta, cho đến đầu những năm 80, các vấn đề liên quan đến SHCN mới được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật. Trong đó, các văn bản pháp luật quan trọng phải kể đến là: Nghị định 197/HĐBT ngày 14/12/1982 về nhãn hiệu hàng hoá, Nghị định 85/HĐBT ngày 13/5/1985 về kiểu dáng công nghiệp.
Năm 1986 Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương tiến hành Đổi Mới toàn diện nền kinh tế và đã đạt được những kết quả nổi bật đưa đất nước dần dần thoát khỏi khủng hoảng và từng bước ổn định và được đánh giá là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới, đời sống kinh tế - xã hội có nhiều đổi thay. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hệ thống pháp luật cũng được củng cố và một loạt các văn bản luật quan trọng ra đời làm cơ sở pháp lý cho các hoạt động kinh tế - xã hội trong đó có các văn bản về SHCN. Ngày 10 tháng 5 năm 1988 Chỉ thị 140/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về đẩy mạnh các hoạt động sáng kiến, sáng chế và SHCN được ban hành, ngày 20 tháng 1 năm 1989 Pháp lệnh về bảo hộ quyền SHCN đã được Hội đồng nhà nước thông qua đánh dấu một bước phát triển về pháp luật SHCN. Pháp lệnh đặt nền tảng cho xác lập và bảo hộ các đối tượng SHCN như sáng chế, giải pháp hưũ ích, kiểu dáng công nghiệp (KDCN), nhãn hiệu hàng hoá (NHHH). Các văn bản nêu trên mặc dù còn nhiều hạn chế, chủ yếu mang nặng tính hành chính,
nhưng đã tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển của pháp luật SHTT nói chung và SHCN nói riêng.
Một cột mốc khác đánh dấu sự phát triển của pháp luật SHTT đó là sự ra đời Bộ luật Dân sự 1995 pháp điển hoá các vấn đề về dân sự, đặt nền tảng pháp lý cho các quyền dân sự và quyền sở hữu trong đó có quyền SHCN đánh dấu một sự thay đổi mới tích cực của hệ thống bảo hộ và bảo vệ quyền SHCN với mục tiêu đáp ứng ngày càng tốt xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Trong giai đoạn này đã có hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng điều chỉnh các quan hệ về SHTT nói chung và SHCN nói riêng, Nghị định 63/CP ngày 24 tháng 10 năm 1996 và được sửa đổi bổ sung bằng Nghị định 06/2001/NĐ-CP ngày 1 tháng 2 năm 2001 quy định chi tiết về SHCN; Nghị định 45/1008/NĐ-CP này 1 tháng 7 năm 1998 quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ; Nghị định 54/2000/NĐ-CP ngày 3 tháng 10 năm 2000 Về bảo hộ quyền SHCN đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới SHCN; Nghị định 42/2003/NĐ-CP ngày 2 tháng 5 năm 2003 của Chính phủ về bảo hộ quyền SHCN đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn; Thông tư 3055/TT-SHCN ngày 31 tháng 12 năm 1996 của Bộ KHCN và MT hướng dẫn thi hành các quy định về thủ tục xác lập quyền SHCN và một số thủ tục khác trong Nghị định 63/CP; Thông tư 29/2003/TT- BKHCN ngày 5 tháng 11 năm 2003 của Bộ KHCN hướng thủ tục xác lập quyền SHCN đối với KDCN; Và không thể không kể đến các các bộ luật và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các vi phạm trong lĩnh vực SHTT như: BLHS 1999 (BLHS) với các điều 156, 157, 158, 168, 170 và 171; Bộ luật Tố tụng hình sự 2004; Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 và các lần sửa đổi; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, sửa đổi, bổ sung năm 2007 và 2008; Nghị định 57/CP ngày 3 tháng 5 năm 1997 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng hàng hoá; Nghị định 12/1999/NĐ- CP ngày 6 tháng 3 năm 1999 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực SHCN; Thông tư 825/2000/TT-BKHCNMT ngày 3 tháng 5 năm 2000 hướng
dẫn thi hành Nghị định 12/1999/NĐ-CP; Luật Hải quan năm 2001 sửa đổi, bổ sung năm 2005 tại Mục 5 Chương III quy định nguyên tắc tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu có yêu cầu bảo vệ quyền SHTT và Nghị định 154/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 12 năm 2005 quy định cho tiết thi hành một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát hải quan; Quyết định 127/QĐ-TTg ngày 27 tháng 8 năm 2001 về thành lập Ban chỉ đạo chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại; Chỉ thị 31/1999/CT-TTg ngày 27 tháng 10 năm 1999 về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả; Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT-BTM-BTC-BCA- BKHCNMT ngày 27 tháng 4 năm 2000 hướng dẫn thi hành Chỉ thị 31.
Sau đó, những quy định về quyền SHTT nói chung và quyền SHCN nói riêng tiếp tục được hoàn thiện trong Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật SHTT năm 2005. Sự ra đời của Luật SHTT thể hiện nỗ lực và thành công của Việt Nam trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về SHTT cũng như pháp luật về SHCN.
Bên cạnh hệ thống pháp luật quốc gia về SHTT nói chung và SHCN nói riêng, Việt Nam cũng đã tham gia các công ước quốc tế về SHTT, SHCN và dựa vào đó xây dựng các quy phạm pháp luật quốc gia về SHCN phù hợp với thông lệ quốc tế.
Chúng ta đã là thành viên của Công ước Paris về Bảo hộ sở hữu công nghiệp và Thoả ước Madrid về Đăng ký quốc tế nhãn hiệu từ năm 1949; Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới năm 1976; và Hiệp ước Hợp tác bằng sáng chế từ tháng 3/1993; Công ước Geneva từ ngày 6/7/2005, Công ước Brussels từ ngày 12/1/2006 và Nghị định thư liên quan đến Thoả ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu từ ngày 11/7/2006. Việt Nam cũng đã ký kết các hiệp định song phương về bảo hộ sở hữu trí tuệ với Hoa Kỳ và Thuỵ Sĩ. Chúng ta cũng đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cũng đồng nghĩa với việc tham gia Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT (TRIPS).
Như vậy có thể nói rằng đến nay Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế quan trọng trong lĩnh vực SHTT và xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia về SHCN cũng khá là đầy đủ, điều này là xu hướng tất yếu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời thúc đẩy các hoạt động sản xuất kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ
chức, cá nhân đối với các đối tượng SHCN đây cũng là sự thể hiện cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO.
1.1.2. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp
Quyền sở hữu công nghiệp được hiểu theo hai nghĩa như sau:
- Theo nghĩa nghĩa rộng: Quyền SHCN là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình xác lập và áp dụng các đối tượng SHCN.
- Theo nghĩa hẹp: Quyền SHCN là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, KDCN, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, NHHH, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh (Điều 4 Luật SHTT 2005).
1.1.3. Đặc điểm quyền sở hữu công nghiệp
Quyền sở hữu công nghiệp và quyền tác giả là hai lĩnh vực cơ bản của quyền SHTT, quyền SHCN khác với quyền tác giả ở đối tượng bảo hộ, thời hạn bảo hộ, điều kiện bảo hộ, thủ tục bảo hộ cụ thể như sau:
- Đối với đối tượng bảo hộ: Đối tượng của quyền tác giả là các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. Trong khi đó, đối tượng của quyền SHCN là sáng chế, KDCN, thiết kế bố trí mạch tích hợp, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu, tên thương mại, bí mật kinh doanh.
- Đối với thời hạn bảo hộ: Quyền tác giả có thể được bảo hộ vô hạn đối với quyền nhân thân (trừ quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố) và có thời hạn đối với quyền tài sản. Còn quyền SHCN về nguyên tắc được bảo hộ có thời hạn. Ví dụ: thời hạn bảo hộ sáng chế là 20 năm kể từ ngày nộp đơn; thời hạn bảo hộ KDCN là 05 năm kể từ ngày nộp đơn, được gia hạn hai lần, mỗi lần 05 năm; chỉ dẫn địa lý được bảo hộ vô thời hạn.
- Đối với điều kiện bảo hộ: Các tác phẩm, văn học, nghệ thuật được bảo hộ khi mang tính nguyên gốc và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất
định. Trong khi đó, về nguyên tắc, đối tượng SHCN được bảo hộ khi có tính mới,
tính sáng tạo, tính khác biệt, tính ứng dụng. Tuy nhiên, những điều kiện bảo hộ này khác nhau đối với từng đối tượng SHCN. Ví dụ, giải pháp kỹ thuật chỉ được bảo hộ là sáng chế khi có tính mới, tính sáng tạo và tính ứng dụng; nhưng nhãn hiệu được bảo hộ khi có tính khác biệt.
- Đối với thủ tục bảo hộ: Đối với hầu hết các đối tượng SHCN, việc bảo hộ chỉ đặt ra khi chủ thể quyền đã thực hiện thủ tục bảo hộ đối tượng SHCN tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong khi đó, yêu cầu này không mang tính bắt buộc đối với các đối tượng thuộc quyền tác giả.
1.2. CÁC ĐỐI TƯỢNG SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1.2.1. Sáng chế
Theo khoản 12 Điều 4 Luật SHTT thì: Sáng chế là giải pháp kỹ thuật có tính mới, có trình độ sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp. Được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích hoặc bằng độc quyền sáng chế cho những giải pháp kỹ thuật thoả mãn 3 điều kiện: tính mới, tính sáng tạo và tính ứng dụng (khoản 1 Điều 58 Luật SHTT).
- Tính mới: Sáng chế được coi là có tính mới nếu chưa bị bộc lộ công khai dưới bất kỳ hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên. Sáng chế được coi là chưa bị bộc lộ công khai nếu chỉ có một số người có hạn được biết và có nghĩa vụ giữ bí mật về sáng chế đó (khoản 1,2 Điều 60).
- Tính sáng tạo: Sáng chế được coi là có trình độ sáng tạo nếu căn cứ vào các giải pháp kỹ thuật đã được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế
trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên, sáng chế đó là một bước tiến sáng tạo, không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng (Điều 61).
- Tính ứng dụng: Sáng chế được coi là có khả năng áp dụng công nghiệp nếu có thể thực hiện được việc chế tạo, sản xuất hàng loạt sản phẩm hoặc áp dụng lặp đi lặp lại quy trình là nội dung của sáng chế và thu đựơc kết quả ổn định (Điều 62).
1.2.2. Giải pháp hữu ích
Sáng chế có thể được bảo hộ dưới hình thức bằng độc quyền giải pháp hữu ích, giải pháp hữu ích là giải pháp kỹ thuật không phải là hiểu biết thông thường, có tính mới và có khả năng áp dụng công nghiệp. Có thể nói giải pháp hữu ích là mức độ thấp của sáng chế, giải pháp hữu ích không có tính sáng tạo như sáng chế.
Trong các văn bản pháp luật được ban hành trước năm 1995 và trong Bộ luật Dân sự năm 1995, giải pháp kỹ thuật có tính mới và tính ứng dụng được gọi là giải pháp hữu ích. Tuy nhiên, trong Luật SHTT, loại giải pháp kỹ thuật này được gọi tên mới là “Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích” (khoản 2 Điều 58). Tên gọi mới này không phù hợp, mà nên gọi là giải pháp hữu ích. Bởi lẽ trong một số công ước về quyền SHTT và pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang sử dụng thuật ngữ giải pháp hữu ích để chỉ những giải pháp kỹ thuật có tính mới và tính ứng dụng, hơn nữa những quy định trong Điều 58 Luật SHTT không logic. Khoản 1 quy định sáng chế được bảo hộ nếu đáp ứng ba điều kiện: có tính mới, có trình độ sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp, vậy tại sao theo khoản 2 một giải pháp kỹ thuật chỉ thoả mãn 2 điều kiện: có tính mới và có khả năng áp dụng công nghiệp cũng được gọi tên là sáng chế?