Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 12

Tóm lại, để đảm bảo tốt nhất quyền học nghề của người khuyết tật, Nhà nước cần bổ sung các quy định của Bộ luật lao động cho phù hợp và ban hành văn bản hướng dẫn thi hành. Trong văn bản này sẽ bao gồm các nội dung: các nguyên tắc và biện pháp hướng nghiệp dạy nghề cho người khuyết tật, tiêu chuẩn, quyền lợi và nghĩa vụ của các trường dạy nghề cho người khuyết tật; chính sách ưu đãi đối với người làm công tác dạy nghề cho người khuyết tật; Quyền lợi và nghĩa vụ của người học nghề khuyết tật trong các trường dạy nghề.

Văn bản hướng dẫn này cũng sẽ có những điều khoản quy định việc xây dựng giáo trình đào tạo nghề cho người khuyết tật; trách nhiệm của các bộ, ngành trong việc xác định nội dung, chương trình, nghề đào tạo, hình thức đào tạo đối với người khuyết tật; trách nhiệm của Nhà nước trong việc cải thiện chất lượng giáo dục và đào tạo cho người khuyết tật thông qua đầu tư thỏa đáng cho việc đổi mới cơ sở hạ tầng bao gồm cả nhà xưởng, trang thiết bị và giáo trình giảng dạy, nâng cao trình độ giáo viên dạy nghề cho người khuyết tật. Quy định về thời gian học nghề đối với người khuyết tật cần phải linh hoạt, tăng thêm thời gian so với người không khuyết tật, cần tìm ra những nghề phù hợp nhất với từng dạng tật để sao cho việc học nghề không trở thành hình thức đối với người khuyết tật. Có cơ chế để doanh nghiệp tham gia vào quá trình đào tạo, đồng thời tạo cầu nối giữa đầu ra của các trường dạy nghề và đầu vào của doanh nghiệp. Quy định về cải tạo các trung tâm dạy nghề để người khuyết tật có thể tiếp cận dịch vụ dạy nghề tốt hơn.

Về việc làm:

Việc làm là một trong các yếu tố đảm bảo quyền lao động của người khuyết tật, có tạo ra được việc làm thì người khuyết tật mới có thể thực hiện được quyền lao động của mình. Giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và của toàn xã hội. Việc xóa bỏ các rào cản để người khuyết tật có cơ hội bình đẳng trong việc tìm kiếm và có được một việc làm phù hợp là một trong những mục tiêu không chỉ Việt Nam mà các quốc gia trên thế giới đều hướng tới. Thực tế cho thấy, vấn đề giải quyết việc làm cho người khuyết tật đang là vấn đề gặp nhiều khó khăn nhất hiện

nay. Do vậy, pháp luật lao động Việt Nam cần bổ sung và hoàn thiện các quy định để bảo vệ quyền có việc làm của người khuyết tật. Bộ luật luật lao động cần bổ sung các quy định cụ thể về quyền tự do lao động, lựa chọn việc làm của người khuyết tật. Theo đó, khoản 1 điều 176 BLLĐ 2012 được bổ sung như sau: “Nhà nước bảo trợ quyền lao động, tự do học nghề và lựa chọn việc làm, tự tạo việc làm của lao động là người khuyết tật…”. Bên cạnh đó, cần thiết phải bổ sung thêm những quy định để phòng ngừa và hạn chế mất việc làm của người khuyết tật do các nguyên nhân như: thay đổi cơ cấu, công nghệ, sáp nhập, hợp nhất… Đây là những nguyên nhân có thể phá vỡ sự ổn định của thị trường lao động, gây tác động rất lớn đến đời sống của người khuyết tật, do đó cần phải kiểm soát một cách hợp lý.

Bộ luật lao động nên bổ sung các quy định trách nhiệm của các tổ chức giới thiệu việc làm trong việc tư vấn việc làm miễn phí cho người khuyết tật bởi so với người bình thường, việc tiếp cận và đánh giá các thông tin về việc làm của người khuyết tật bị hạn chế rất nhiều và cơ hội để tìm được việc làm phù hợp vì thế mà giảm đi đáng kể nên cần có sự hỗ trợ từ các tổ chức cung cấp các thông tin cần thiết về nghề nghiệp cho họ. Do đó cần quy định: “Tổ chức giới thiệu việc làm có trách nhiệm tư vấn học nghề, tư vấn và giới thiệu việc làm cho người khuyết tật”. Nghị định hướng dẫn thi hành cần quy định về thành lập, hoạt động và trách nhiệm của các tổ chức giới thiệu việc làm; các điều kiện tiêu chuẩn đối với các cán bộ giới thiệu việc làm cho người khuyết tật để đảm bảo chất lượng của công tác tư vấn và giới thiệu việc làm cho người khuyết tật.

Để ràng buộc về trách nhiệm đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh việc quy định tỷ lệ lao động là người khuyết tật bắt buộc mà doanh nghiệp phải nhận vào làm việc nhằm tăng cường cơ hội cho người khuyết tật tham gia vào thị trường lao động là cần thiết. Thông lệ quốc tế và pháp luật của một số nước trên thế giới cũng áp dụng quy định bắt buộc này, mặc dù khác nhau về tỷ lệ. Tài liệu hướng dẫn “Hướng tới cơ hội việc làm bình đẳng cho người khuyết tật thông qua hệ thống pháp luật” của ILO khuyến nghị các quốc gia về việc áp dụng chính sách định mức tạo việc làm cho người khuyết tật hay như Bộ luật Xã hội, Quyền 9, năm 2002 của Đức có

quy định các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân có sử dụng ít nhất 20 lao động phải đảm bảo ít nhất 5% trong số họ là người khuyết tật; Doanh nghiệp không đáp ứng được định mức này buộc phải nộp một khoản tiền phạt theo quy định cho từng suất công việc; Tiền phạt thu được từ nguồn này chỉ hỗ trợ cho việc phục hồi chức năng và việc làm cho người khuyết tật và có thể được cấp cho doanh nghiệp thực hiện vượt định mức quy định về sử dụng lao động là người khuyết tật và giúp họ trang trải những chi phí phát sinh từ việc tuyển dụng lao động khuyết tật như điều chỉnh cơ sở vật chất nơi làm việc hoặc đào tạo nâng cao cho người khuyết tật. Một số nước Châu Âu cũng áp dụng quy định này như ở Pháp, pháp luật cho phép các doanh nghiệp lựa chọn nhận tỷ lệ bắt buộc người khuyết tật vào làm việc hoặc thực hiện gián tiếp thông qua mua hàng hóa hoặc sử dụng dịch vụ của các cơ sở có sử dụng lao động khuyết tật, hoặc tham gia một kế hoạch thỏa thuận được ký kết giữa tổ chức của doanh nghiệp với tổ chức của người lao động nhằm tăng cường sự tham gia của người khuyết tật, thông qua tuyển dụng, đào tạo, bảo đảm việc làm lâu dài hoặc điều chỉnh với công nghệ mới [81]. Quy định như vậy nhằm tạo sự ràng buộc nhất định buộc các doanh nghiệp phải đảm bảo việc làm cho người khuyết tật. Ngoài ra, những doanh nghiệp nhận quá tỷ lệ quy định thì còn được hưởng các chính sách ưu đãi từ phía Nhà nước.

Do vậy, theo chúng tôi nên bổ sung điều khoản quy định về tỷ lệ bắt buộc này vào Bộ luật lao động như sau: “Chính phủ quy định tỷ lệ lao động đối với một số nghề và công việc mà doanh nghiệp phải nhận; Nếu không nhận thì doanh nghiệp phải góp một khoản tiền theo quy định của Chính phủ vào quỹ việc làm để góp phần giải quyết việc làm cho người khuyết tật. Doanh nghiệp nào nhận người khuyết tật vào làm việc vượt tỷ lệ quy định thì được Nhà nước hỗ trợ cho vay với lãi suất thấp để tạo điều kiện làm việc thích hợp cho người khuyết tật”. Trên cơ sở quy định này, nghị định hướng dẫn thi hành cần xem xét nâng lên tỷ lệ 4% - 5% đối với một số ngành nghề thu hút nhiều lao động và phù hợp với khả năng của người khuyết tật như: dệt may, thủ công mỹ nghệ truyền thống, lắp ráp linh kiện điện tử... thay vì chỉ là 2% - 3% như trước kia. Đồng thời tỷ lệ mà doanh nghiệp phải tiếp

nhận không được tính cả những người khuyết tật sau khi bị tai nạn, bệnh nghề nghiệp mà vẫn tiếp tục làm việc, hoặc đã được hưởng trợ cấp xã hội, phụ cấp cao hơn hoặc bằng mức hưởng tối thiểu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.

Trong việc xác định căn cứ để coi là người khuyết tật mà các doanh nghiệp phải nhận, các nhà làm luật cần xem xét tỷ lệ thương tật hợp lý để xác định tỷ lệ người khuyết tật mà các doanh nghiệp phải nhận vào làm việc. Theo quy định tại Thông tư số 32/TT-LB thì những người bị suy giảm 21% khả năng lao động chỉ chịu tổn thương nhẹ về giải phẫu - chức năng, có thể kèm tổn thương về mặt tâm lý và xã hội. Nói chung, khả năng lao động của họ có bị giảm sút, hạn chế một phần nhưng mọi hoạt động của cơ thể ở trạng thái gần như bình thường hoặc được bù trừ vĩnh viễn, lâu dài. Một số thương binh trong hạng này có thể phải thay đổi nghề nghiệp, thay đổi điều kiện, môi trường lao động, hoặc giảm nhẹ khối lượng lao động. Do vậy, đa số họ đều vẫn còn khả năng làm việc như những người bình thường khác nếu được bố trí vào những công việc phù hợp với dạng tật.Trên thực tế các doanh nghiệp thường có xu hướng tuyển dụng những người khuyết tật với mức độ thương tật nhẹ để giảm bớt gánh nặng mà vẫn đảm bảo được tỷ lệ bắt buộc mà pháp luật yêu cầu. Vì vậy, pháp luật nên bổ sung quy định bên cạnh tỷ lệ bắt buộc những người có tỷ lệ thương tật 21% doanh nghiệp phải tuyển nên quy định một tỷ lệ nhất định người lao động khuyết tật nặng hơn (có mức độ suy giảm khả năng lao động từ 41% trở lên) mà các doanh nghiệp phải nhận vào làm việc để những người khuyết tật nặng vẫn có cơ hội được có việc làm. Bên cạnh đó, chính sách ưu đãi với các doanh nghiệp có sử dụng lao động là người khuyết tật nặng cũng phải cao hơn so với các doanh nghiệp khác thì mới khuyến khích được các doanh nghiệp tạo cơ hội việc làm cho họ.

Về chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp có sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật, pháp luật cần bổ sung quy định: Đối với cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng cho người khuyết tật nên mở rộng phạm vi các loại thuế mà cơ sở sản xuất kinh doanh đó được miễn, chẳng hạn: thuế nhà đất, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với cơ sở massage cho người mù…; với người khuyết tật tự tạo việc làm, pháp

Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 12

luật cần quy định chi tiết, thủ tục đơn giản các ưu đãi hỗ trợ, tạo điều kiện cho người khuyết tật tiếp cận các nguồn vốn vay, hỗ trợ kinh phí cho các tổ chức tự lực, cơ sở sản xuất kinh doanh của người khuyết tật. Ngoài ra, pháp luật cần quy định mức thưởng cao cho các doanh nghiệp nhận người khuyết tật và “có bảo đảm việc làm cho người khuyết tật trong thời gian dài”. Đây chính là động lực, đòn bẩy cho các doanh nghiệp nhận lao động khuyết tật vào làm việc.

Về quỹ việc làm cho người khuyết tật:

Quy định về quỹ việc làm dành cho người khuyết tật cũng là một trong những chính sách tích cực của Nhà nước nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tạo nhiều hơn cơ hội việc làm cho người khuyết tật. Tuy nhiên, quản lý và sử dụng sao cho đúng đối tượng và có hiệu quả cần phải có các quy định cụ thể của pháp luật và sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các quy định đó.

Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành về quỹ việc làm cho người khuyết tật làm cơ sở cho việc áp dụng và thực thi trên thực tế. Trong nghị định nên quy định cụ thể về: Nguồn hình thành quỹ; mục đích sử dụng quỹ; cơ quan được phân công chịu trách nhiệm trong việc quản lý thu và chi nguồn quỹ này; các đối tượng được hưởng lợi từ nguồn quỹ này và các chế độ cụ thể đối với từng đối tượng… Pháp luật cần quy định cụ thể hơn về trách nhiệm thu chi của quỹ đối với từng cơ quan liên quan như: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Ủy ban nhân dân các cấp; cần phải quy định một cơ chế dễ dàng và thuận lợi đối với việc nộp phí bồi hoàn của các doanh nghiệp vào quỹ, cũng như việc khuyến khích, khen thưởng từ quỹ đối với các doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ đối với lao động là người khuyết tật.

Nghị định hướng dẫn có thể quy định cụ thể về quỹ việc làm cho người khuyết tật như sau: Quỹ được hình thành từ các nguồn: Ngân sách địa phương (Hằng năm, căn cứ khả năng ngân sách địa phương và nhu cầu giải quyết việc làm, học nghề cho người khuyết tật tại địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân quyết định bố trí một khoản từ ngân sách cho quỹ); Khoản nộp hàng tháng của các doanh nghiệp không nhận đủ số người khuyết tật vào làm việc theo tỷ

lệ quy định; Nguồn tài trợ, giúp đỡ của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước và các nguồn thu khác. Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lập quỹ việc làm cho người khuyết tật để trợ giúp người khuyết tật phục hồi chức năng lao động và tạo việc làm, hỗ trợ các cơ sở dạy nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng cho người khuyết tật, hỗ trợ các doanh nghiệp khác thuộc mọi thành phần kinh tế có nhận người khuyết tật vào học nghề và làm việc đạt tỷ lệ cao. Quỹ do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định thành lập và giao Giám đốc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội làm chủ tài khoản. Quỹ được sử dụng như sau: (1) Cấp hỗ trợ đối với các đối tượng cơ sở dạy nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng cho người khuyết tật để xây dựng, sửa chữa nhà xưởng, mua máy móc, thiết bị kỹ thuật, duy trì dạy nghề và phát triển sản xuất theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt; hỗ trợ các doanh nghiệp khác thuộc mọi thành phần kinh tế nhận người khuyết tật vào làm việc cao hơn tỷ lệ quy định khi sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn hoặc có dự án phát triển sản xuất nhưng phải được cấp có thẩm quyền xem xét hỗ trợ; hỗ trợ cơ quan quản lý để đào tạo nâng cao năng lực đối với người làm công tác dạy nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm cho người khuyết tật; (2) Cho vay với lãi suất ưu đãi (theo mức lãi suất cho vay đối với người khuyết tật của Ngân hàng chính sách xã hội) đối với các cơ sở dạy nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng cho người khuyết tật; cá nhân và nhóm lao động là người khuyết tật; cơ sở dạy nghề nhận người khuyết tật vào học nghề và doanh nghiệp khác thuộc mọi thành phần kinh tế nhận người khuyết tật vào làm việc với tỷ lệ lao động là người khuyết tật cao hơn tỷ lệ quy định; (3) Chi không quá 5% tổng số thu của quỹ cho công tác quản lý quỹ; (4) Số dư hàng năm của quỹ được chuyển sang năm sau. Không sử dụng quỹ việc làm này vào các mục đích khác…

Thứ hai, hoàn thiện các quy định về bảo vệ đời sống của người khuyết tật:

Về thời giờ làm việc: Pháp luật lao động thay vì quy định thời gian làm việc chung là 08 tiếng 01 ngày đối với tất cả người lao động nên quy định thời giờ làm việc khác nhau đối với những lao động khuyết tật tùy theo mức độ suy giảm khả năng lao động của họ để đảm bảo về mặt sức khỏe và hiệu suất làm việc cho người

khuyết tật nặng hơn. Cụ thể, thời giờ làm việc đối với lao động khuyết tật nhẹ (từ 21% đến 40%) vẫn không quá 08 tiếng một ngày, nhưng đối với lao động khuyết tật nặng hơn (từ 41% trở lên) có thể là không quá 07 tiếng một ngày. Bên cạnh đó, thời giờ nghỉ ngơi giữa các ca làm việc đối với người khuyết tật nặng cũng được kéo dài hơn so với người khuyết tật nhẹ hơn.

Về an toàn lao động: Bộ luật lao động cần quy định trách nhiệm của NSDLĐ trong việc đảm bảo điều kiện an toàn lao động cho người khuyết tật như: việc sử dụng các trang, thiết bị, vật dụng làm việc, các công cụ bảo hộ lao động phù hợp với từng dạng tật của người lao động khuyết tật; Điều chỉnh các trang thiết bị đảm bảo khả năng làm việc hiệu quả cho người khuyết tật mà không gây ảnh hưởng gây nguy hiểm cho họ…

Trách nhiệm của người sử dụng lao động trong trường hợp người lao động bị tai nạn lao động dẫn đến khuyết tật cũng cần được quy định rõ. Trong trường hợp này người sử dụng lao động phải có trách nhiệm đào tạo người lao động và bố trí việc làm phù hợp bởi trước đó, người lao động đã cống hiến sức lao động cho doanh nghiệp. Trường hợp không tạo được công việc phù hợp thì phải giới thiệu cho người đó công việc, đơn vị lao động phù hợp tránh trường hợp người lao động phải lao đao tìm việc.

Về tính mạng, sức khỏe: Thay vì nghiêm cấm hoàn toàn việc người sử dụng lao động sử dụng người khuyết tật suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm thì pháp luật lao động nên quy định theo hướng mở tạo điều kiện cho các bên thực hiện các thỏa thuận theo hướng có lợi cho cả hai. Theo đó, khoản 1 điều 178 BLLĐ 2012 nên được bổ sung như sau:

“Các hành vi bị cấm khi sử dụng lao động là người khuyết tật:

Sử dụng lao động là người khuyết tật suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”.

Thỏa thuận khác trong điều khoản này cần được quy định cụ thể trong nghị định hướng dẫn thi hành, đó là thỏa thuận về việc đảm bảo các điều kiện về môi trường làm việc phù hợp, điều kiện về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về bảo vệ

tính mạng và sức khỏe của người khuyết tật. Quy định như vậy vừa đáp ứng được nhu cầu chính đáng của các bên, đồng thời vẫn đảm bảo các quyền của người khuyết tật không bị xâm phạm.

Pháp luật lao động cũng cần xem xét và đưa ra một giới hạn thời gian làm thêm giờ tối đa sao cho vừa đáp ứng nhu cầu lao động của người khuyết tật vừa bảo vệ tính mạng và sức khỏe của họ. Bên cạnh đó, bổ sung thêm các tiêu chuẩn cụ thể về an toàn lao động, vệ sinh lao động cho người lao động là người khuyết tật, đồng thời bổ sung những tiêu chuẩn mới cho các ngành nghề mới ra đời góp phần bảo đảm tính mạng, sức khỏe cho người khuyết tật. Ngoài ra, cần phải xem xét nâng mức xử phạt hành chính cao hơn đối với hành vi vi phạm các quy định của pháp luật lao động để tạo tính răn đe cho xã hội. Nếu cần thiết phải quy định thêm cả những hình thức xử lý khác kể cả truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các chủ thể có hành vi vi phạm.

Đối với vấn đề bảo vệ, chăm sóc sức khỏe và phục hồi chức năng lao động của người khuyết tật, pháp luật cần quy định về việc Nhà nước dành một khoản ngân sách để giúp người khuyết tật phục hồi sức khỏe, phục hồi chức năng lao động và học nghề. Bên cạnh đó, bổ sung quy định về mức trợ cấp khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng lao động của NSDLĐ đối với người khuyết tật bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong quá trình làm việc cho NSDLĐ sao cho phù hợp với các văn bản pháp luật có liên quan. Cụ thể nên quy định về trách nhiệm của NSDLĐ trong việc đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe và phục hồi chức năng cho người khuyết tật bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thông qua việc cung cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình theo niên hạn căn cứ vào tình trạng thương tật, bệnh tật; quy định mức hỗ trợ chăm sóc sức khỏe hàng tháng cho người khuyết tật tùy theo mức độ thương tật do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…

Thứ ba, các quy định về bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khuyết tật cần được hoàn thiện. Hiện nay các quy định của pháp luật lao động mới chỉ dừng lại ở mức độ nguyên tắc, chưa có những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động trong việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của người

Xem tất cả 126 trang.

Ngày đăng: 16/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí