Đánh Giá Khái Quát Về Các Công Trình Nghiên Cứu Trong Tổng Quan Tình Hình Nghiên Cứu Và Những Vấn Đề Cần Giải Quyết Trong Luận Án


Công trình này chủ yếu nghiên cứu về hiệu quả BMĐT tiếng Anh đối với công chúng nước ngoài, không tiếp cận ở góc độ BMĐT thực hiện QTDNL của công dân Việt Nam trên báo chí, tuy nhiên, tác giả luận án vẫn có thể kế thừa về phương pháp nghiên cứu vấn đề.

Luận văn Thạc sĩ của Trần Quang Huy (2006), Hoạt động tương tác trên báo mạng điện tử: Từ nghiên cứu thực tiễn về hoạt động tương tác của BMĐT, luận văn đã khái quát thành lý thuyết (khái niệm, đặc điểm, phương thức tổ chức hoạt động) về tương tác trên BMĐT. Công trình này cung cấp thêm cho tác giả luận án những kiến thức lý thuyết và thực tiễn về vấn đề tương tác giữa BMĐT với công chúng của mình và ngược lại.

Nhóm 3: Những công trình là bài báo khoa học

- Trên thế giới:

Mark Deuze, Online Journalism modelling the first generation of news media on the world wide web, Holland, 12/1998: Bằng hoạt động thực tế làm báo và khả năng nghiên cứu, giảng dạy về loại hình báo chí mới, Mark Deuze đưa ra định nghĩa, đặc trưng của BMĐT có tính khái quát và khoa học, rất giá trị và bổ ích, được áp dụng cho đến ngày nay. Nhiều nhà nghiên cứu đã kế thừa lý thuyết BMĐT của công trình này. Điểm đáng chú ý trong bài báo này là sự nhấn mạnh về vai trò tham gia của độc giả vào quá trình sản xuất thông tin của tờ báo khi được xuất bản trên mạng Internet.

Trong bài nghiên cứu The Case of Online Newspaper and The Web, (Southern California University, USA, 7/1999), Colleen M. Keough and Thora Chistiansen đã cho rằng, BMĐT là sản phẩm F2 (chữ dùng: a bread aprt - một nòi giống tách biệt) của sự kết hợp tất cả các loại hình báo chí trước nó. Chính vì vậy, BMĐT có nhiều ưu điểm hơn hẳn các loại hình báo chí trước nó, có thể đón tiếp độc giả vào tờ báo để xem tin và tương tác với tờ báo. Từ nghiên cứu này, tác giả luận án có thể rút ra một luận cứ bổ ích: những ưu điểm của BMĐT sẽ là một lợi thế cạnh tranh, giúp cho BMĐT thực hiện QTDNL của công dân tốt hơn các loại hình báo chí khác.


- Ở Việt Nam:

Trong bài báo Báo chí và trách nhiệm tôn trọng sự thật, tác giả Vũ Quỳnh cho rằng, sứ mệnh của báo chí là phải tôn trọng sự thật khách quan. Báo chí phản ánh đúng sự thật sẽ dẫn dắt nhận thức đúng và hành động đúng. Tuy nhiên, đang tồn tại một thực trạng là, vì lợi ích cá nhân hoặc lợi ích nhóm mà vẫn còn những tờ báo thông tin sai sự thật, hoặc sử dụng lời nói của nhân chứng mang tính chất tiêu cực, sai sự thật, để những kẻ chống phá đất nước lợi dụng, gây nhiễu loạn thông tin.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 209 trang tài liệu này.

2. Đánh giá khái quát về các công trình nghiên cứu trong Tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề cần giải quyết trong luận án

2.1. Đánh giá khái quát những vấn đề đã được đề cập trong các công trình nghiên cứu ở Tổng quan

Báo mạng điện tử thực hiện quyền tự do ngôn luận của công dân Việt Nam hiện nay - 6

Trong Tổng quan tình hình nghiên cứu, tác giả luận án đã sưu tầm, thống kê, phân tích từ góc độ Báo chí học các tài liệu của nước ngoài và của Việt Nam, theo 2 hướng nghiên cứu chính: (i) Hướng nghiên cứu QTDNL trên báo chí của công dân; (ii) Hướng nghiên cứu BMĐT thực hiện QTDNL của công dân. Từ phân tích những tài liệu này, tác giả luận án quan sát thấy: chưa có tài liệu nào đề cập trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu của luận án là Báo mạng điện tử thực hiện quyền tự do ngôn luận của công dân. Tuy nhiên, thông qua nghiên cứu các tài liệu này, tác giả luận án cũng thu lượm được khá nhiều kiến thức quí giá về QTDNL, về báo chí và BMĐT, có thể áp dụng cho quá trình thực hiện luận án.

- Ở hướng nghiên cứu QTDNL trên báo chí của công dân:

Tác giả luận án xác định đây là công việc nghiên cứu đầu tiên để “chắt lọc” những tri thức cơ bản về QTDNL từ các tài liệu của nước ngoài và của Việt Nam, lấy đó làm luận cứ khoa học tiền đề để xây dựng cơ sở lý luận về QTDNL: xác định khái niệm, thuộc tính, bản chất QTDNL. Chính vì vậy, những tài liệu này được tác giả luận án nghiên cứu kỹ lưỡng và cẩn trọng, từ đó rút ra một số nhận xét sau:


Thứ nhất, tài liệu có liên quan đến QTDNL khá phong phú và đa dạng ở góc độ tiếp cận, như: triết học, chính trị học; luật học; báo chí học; văn hóa học,... Điều này cho thấy, QTDNL liên quan đến “quyền tự do” của con người, cho nên, được nhiều người quan tâm nghiên cứu, tập trung nhất là thời kỳ Khai Sáng (TK. 18, 19) - khi các nhà nước dân chủ đầu tiên ra đời. Cho đến nay, QTDNL cũng vẫn đang là vấn đề thời sự, thậm chí, còn khá “nóng” trong thời công nghệ số, tuy nhiên, “sức nóng” bây giờ không phải là tranh cãi về bản chất của QTDNL như trước kia, mà là “nóng” ở sự tăng đột biến mức độ sử dụng QTDNL của các cá nhân trong xã hội.

Thứ hai, nội dung liên quan đến QTDNL được đề cập trong các tài liệu khá tản mát, không sâu, thường ở dạng nêu vấn đề, hoặc đan xen trong quá trình diễn giải các vấn đề xã hội khác, thậm chí, chỉ được lướt qua vài dòng, hoặc đặt trong khung tham chiếu với các quyền và tự do của con người. Hầu như không có tài liệu nào mang tính nghiên cứu lý thuyết sâu, bài bản và hệ thống, hầu như chưa có tài liệu nào đưa ra khái niệm QTDNL mang tính khoa học khái quát.

Thứ ba, qua nghiên cứu những tài liệu này, tác giả luận án cũng rút ra được một số luận cứ mang tính khoa học, có thể sử dụng cho luận án: (i) QTDNL đã được các nhà nghiên cứu tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau và từ các thời điểm khác nhau, tuy nhiên, họ đều có điểm chung khi khẳng định: chỉ trong xã hội dân chủ con người mới được hưởng QTDNL. (ii) Điểm khác biệt căn bản trong quan điểm của các nhà nghiên cứu: Có trường phái cho rằng, QTDNL là quyền tự nhiên (quyền tuyệt đối) nên được sử dụng vô hạn; Trường phái khác lại cho rằng, QTDNL là quyền pháp lý (không tuyệt đối), có thể bị giới hạn hoặc tạm đình chỉ. Sự khác biệt về quan niệm này dẫn đến việc thực hiện QTDNL cũng sẽ khác nhau. Đây là khoảng trống mở, luận án cần tiếp tục nghiên cứu.

- Ở hướng nghiên cứu về BMĐT thực hiện QTDNL của công dân

Hướng nghiên cứu này được tiếp cận ở hai góc độ:


Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về báo chí nói chung: tài liệu về lý thuyết báo chí ở trên thế giới và ở Việt Nam khá phong phú về chủng loại tài liệu, tương đối hệ thống và bài bản về nội dung, không có sự khác biệt nhiều về nội dung cơ bản trong lý thuyết báo chí của nước ngoài và của Việt Nam, (như: khái niệm, đặc trưng cơ bản, quy trình sáng tạo tác phẩm, nguyên tắc hoạt động, đạo đức nghề nghiệp), cho nên, tác giả luận án có thể kế thừa theo nguyên bản hoặc không, tùy theo mục đích khai thác tư liệu. Tuy nhiên, theo quan sát của tác giả luận án, những tài liệu này chưa đề cập đến vấn đề BMĐT thực hiện QTDNL của công dân Việt Nam hiện nay.

Thứ hai, các công trình nghiên cứu về BMĐT:

Tài liệu về BMĐT ở trên thế giới và ở Việt Nam tuy không nhiều nhưng nội dung khá bài bản. Đặc biệt, những tài liệu về BMĐT ở Việt Nam đã được sử dụng trong nhà trường đào tạo báo chí - truyền thông, do đó, những tài liệu này đảm bảo về tính khoa học, khá chuẩn mực về ngôn từ, có thể kế thừa theo nguyên bản. Tuy nhiên, những tài liệu đó chỉ đề cập đến lý luận chung về BMĐT, mà không đề cập về vấn đề BMĐT thực hiện QTDNL của công dân. Đây là khoảng trống mà luận án cần nghiên cứu.

Đây là những giá trị khoa học vô cùng quý báu của những công trình nghiên cứu đi trước mà luận án có thể tiếp thu, kế thừa trong quá trình thực hiện luận án.

2.2. Những vấn đề Luận án cần tiếp tục nghiên cứu

* Về mặt lý luận

- QTDNL trên báo chí là lĩnh vực khá “mở”, có thể tiếp cận theo nhiều hướng khác nhau, do đó, tác giả luận án cần phải nghiên cứu lý thuyết mang tính khoa học liên ngành để xác lập khái niệm QTDNL; thuộc tính QTDNL; sự tương đồng và khác biệt giữa TDNL thông thường với TDNL trên báo chí; cơ sở pháp lý về QTDNL (điều được hưởng và điều bị hạn chế) và cần phải rút ra được kết luận: QTDNL là quyền tự nhiên, được hưởng thụ vô hạn? Hay QTDNL là quyền pháp lý, được hưởng thụ trong giới hạn quy định của luật pháp?


- Tác giả luận án cần xây dựng khung lý thuyết BMĐT thực hiện QTDNL của công dân trên báo chí: (i) Cần phải xác lập các khái niệm công cụ theo quan niệm riêng: BMĐT/ thực hiện/quyền tự do ngôn luận/ quyền tự do ngôn luận trên báo chí/ công dân; (ii) Cần xác lập cơ sở lý luận và các lý thuyết tiếp cận nghiên cứu BMĐT thực hiện QTDNL của công dân; (iii) Cần xác lập khung pháp lý của Quốc tế và của Việt Nam quy định về BMĐT thực hiện QTDNL của công dân (điều được thực hiện và điều không được thực hiện); (iiii) Cần xác lập các tiêu chí để nghiên cứu thực trạng BMĐT thực hiện QTDNL trên báo chí của công dân (BMĐT phải thực hiện những công việc cụ thể gì để đáp ứng và thỏa mãn tối đa nhu cầu hưởng thụ QTDNL trên báo chí của công dân?).

* Về mặt thực tiễn

- Cần nghiên cứu thực tiễn báo chí thực hiện QTDNL của công dân qua một số mô hình của thế giới và thực tiễn của Việt Nam trước thời điểm năm 2015, để thấy được nét đặc thù của báo chí mỗi quốc gia khi thực hiện QTDNL của công dân.

- Cần khảo sát, nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng BMĐT thực hiện QTDNL trên báo chí của công dân Việt Nam (bằng phương pháp thực chứng qua các sự kiện tiêu biểu được khảo sát trên nền tảng các trường hợp BMĐT cụ thể, từ năm 2015 đến 2019 và cho đến nay - 2021).

- Trên cơ sở đánh giá khoa học về thực trạng BMĐT thực hiện QTDNL trên báo chí của công dân, trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những vấn đề đang đặt ra, luận án cần đưa ra được những giải pháp phù hợp để thúc đẩy BMĐT thực hiện QTDNL của công dân trên báo chí nói chung, BMĐT nói riêng, ngày một tốt hơn trong thời gian tới.

- Ngoài việc nghiên cứu thực tế chủ thể pháp luật là BMĐT thực hiện QTDNL của công dân trong thời gian từ 2015 đến 2019 nhằm đưa ra luận chứng xác đáng và khoa học để phản bác quan điểm của các thế lực thù địch: Công dân Việt Nam có hay không được TDNL trên báo chí? thì tác giả luận án cần tìm thêm chứng cứ thực tế là công dân (chủ thể quyền) thực hiện QTDNL trên báo chí như thế nào, kết quả ra sao và vì sao lại có kết quả đó? Yếu tố


nào ảnh hưởng đến kết quả đó? Mức độ hài lòng của công dân đối với việc BMĐT thực hiện QTDNL của công dân.

Tiểu kết Tổng quan tình hình nghiên cứu

Tổng quan tình hình nghiên cứu là bước đầu tiên trong hành trình thực hiện luận án. Tài liệu nghiên cứu bám sát đề tài luận án sẽ giúp cho quá trình đi đến mục tiêu được định hướng rõ ràng hơn. Qua sưu tầm, thống kê, phân loại, sàng lọc, phân tích nội dung, đánh giá khái quát các tài liệu, rút ra những tri thức khoa học có giá trị kế thừa cho luận án, tác giả luận án đi đến một số kết luận sau đây:

Thứ nhất, ở góc độ tư liệu liên quan:

Những đánh giá trong mục 1.2 của chương Tổng quan đã chỉ ra rằng, đã có không ít công trình nghiên cứu của thế giới và của Việt Nam có nội dung liên quan đến QTDNL, báo chí, BMĐT, trong đó có những luận cứ khoa học có giá trị gần gũi với đề tài luận án mà tác giả luận án có thể kế thừa, tuy nhiên, vẫn còn nhiều khoảng trống mà các tài liệu này để lại, cần phải được nghiên cứu một cách hệ thống và sâu sắc.

Có thể khái quát những khoảng trống mà luận án cần tiếp tục nghiên cứu: (i) Những vấn đề lý luận và thực tiễn BMĐT thực hiện QTDNL của công dân; (ii) Khảo cứu, đánh giá thực trạng BMĐT thực hiện QTDNL của công dân Việt Nam hiện nay; (iii) Phân tích những vấn đề đặt ra và đề xuất những giải pháp, khuyến nghị thúc đẩy BMĐT thực hiện tốt hơn QTDNL của công dân trong thời gian tới.

Như vậy, theo quan sát của tác giả luận án về các tài liệu đã có tính đến thời điểm đăng ký đề tài luận án, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu ở tầm mức luận án Tiến sĩ về BMĐT thực hiện QTDNL của công dân Việt Nam hiện nay, cho nên, có thể khẳng định: Đề tài của luận án “BMĐT thực hiện QTDNL của công dân Việt Nam hiện naykhông trùng lặp với các công trình nghiên cứu đã có, có ý nghĩa thời sự, có ý nghĩa khoa học về lý luận và thực tiễn, rất cần thiết phải nghiên cứu.


Thứ hai, về phương diện nhận thức

Về quan điểm nghiên cứu của các tác giả ở nước ngoài và ở Việt Nam, dù tiếp cận ở các góc độ khác nhau, nhưng đều thể hiện sự nghiêm cẩn cần thiết trong nghiên cứu khoa học, tôn trọng hiện thực khách quan, thái độ tích cực và công bằng. Cùng một vấn đề lý thuyết, các tài liệu của Việt Nam và tài liệu của nước ngoài thường khá nhất quán về nội dung và quan điểm tiếp cận, cho nên, khi kế thừa tri thức khoa học từ các tài liệu này, tác giả luận án có thể không cần phải quá quan tâm đến lập trường chính trị và quan điểm nghiên cứu của các tác giả. Điều có thể nhận thấy rõ rệt nhất là, các công trình đã có giúp tác giả luận án tiếp cận được nền tảng lý luận căn bản, đặc biệt là quan điểm triết học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó kế thừa tri thức lý luận của các khoa học liên ngành (như: chính trị học, tâm lý học, xã hội học, văn hóa học, ngôn ngữ học, báo chí học,...) trong quá trình nghiên cứu Luận án.

Thứ ba, từ góc độ phương pháp luận

Các công trình nghiên cứu đã có thường sử dụng phương pháp tư duy triết học, đặt cái riêng trong cái chung, đặt cái đơn lẻ trong mối liên hệ phổ biến, đặt báo chí trong mối tương quan chính trị, lịch sử, văn hóa cụ thể của quốc gia và thế giới. Điều này giúp ích rất nhiều cho tác giả luận án khi nghiên cứu đề tài, tuy nhiên, đây cũng là một khó khăn cho tác giả luận án, bởi khi bóc tách nghiên cứu từng vấn đề về báo chí, quyền và TDNL trong đề tài BMĐT thực hiện QTDNL của công dân cụ thể ở Việt Nam, có thể sẽ vấp phải “định kiến về khuôn mẫu tư duy”, cho nên, chắc chắn tác giả luận án sẽ phải sử dụng một vài quan điểm nghiên cứu nào đó một cách khiên cưỡng. Tuy nhiên, điều đó không ảnh hưởng đến việc kế thừa các giá trị khoa học của các công trình nghiên cứu.

Nhìn chung, hàng trăm tài liệu được nghiên cứu và chỉ chắt lọc ra từ đó không nhiều những gì có liên quan đến đề tài BMĐT thực hiện quyền tự do ngôn luận của công dân Việt Nam hiện nay, nhưng đó sẽ là những “hạt” tri thức vô cùng quí báu, đặt dấu mốc nền tảng đầu tiên về lý luận và thực tiễn,


giúp tác giả luận án triển khai việc nghiên cứu Luận án một cách đúng hướng và có chất lượng. Đặc biệt, trong bối cảnh truyền thông số hiện nay, việc thực hiện QTDNL trên báo chí của công dân theo pháp luật quy định mặc nhiên trở thành công việc hàng ngày của BMĐT và BMĐT cũng đang phải đối diện với nhiều thách thức. Chính vì vậy, việc nghiên cứu Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài “BMĐT thực hiện QTDNL trên báo chí của công dân Việt Nam hiện nay” là để có cái nhìn bao quát, nhằm rút ra những vấn đề lý luận, từ đó “soi” vào nghiên cứu thực tiễn BMĐT thực hiện QTDNL của công dân Việt Nam, là việc làm cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Những tài liệu trong Tổng quan này chắc chắn sẽ hỗ trợ đắc lực cho việc nghiên cứu tiếp theo của luận án.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/01/2023