cả sản phẩm đóng phí một lần, vừa có sản phẩm ngắn hạn lại có sản
phẩm trung và dài hạn.
+ Với sự đa dạng về chủng loại các sản phẩm BHNT đã đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đa dạng, phong phú và toàn diện của nhân dân về BHNT. Số liệu triển khai cho thấy, sản phẩm hỗn hợp (kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm) đặc biệt là bảo hiểm trẻ em là những sản phẩm “bán chạy” nhất ,các sản phẩm mang tính bảo vệ đơn thuần như bảo hiểm tử kỳ, bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm chi phí y tế ít được ưa chuộng. Điều này cho thấy thị trường VN vẫn đang ở trong giai đoạn “ưa tiết kiệm” đồng thời cũng phản ánh truyền thống tiết kiệm, hiếu học, đức hy sinh vì con cháu của người VN, tuy nhiên nó cũng cho thấy BHNT chưa thực sự trở thành tập quán ở VN. Thêm vào đó, các sản phẩm bảo hiểm ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng lớn, phản ánh tâm ly lo sợ lạm phát, e ngại đầu tư dài hạn của công chúng. Gần đây các doanh nghiệp lần lượt đưa ra các sản phẩm dài hạn hơn và nhiều sản phẩm bổ trợ mang tính bảo vệ như bảo hiểm bệnh hiểm nghèo
,bảo hiểm chăm sóc phụ nữ toàn diện …cho thấy những tín hiệu ban đầu về sự dịch chuyển sản phẩm.
+ Ngoài bảo hiểm nhân thọ, các doanh nghiệp còn cung cấp thêm các loại hình dịch vụ cho khách hàng tham gia BHNT như tư vấn du học, cho khách hàng vay tiền theo hợp đồng (policy loan), thẻ giảm giá, phiếu mua hàng … Với những nỗ lực của các doanh nghiệp, chất lượng dịch vụ BHNT ngày càng được nâng cao và mang tính toàn diện.
+ Kết quả triển khai thời gian qua cho thấy, khách hàng tham gia BHNT rất đa dạng, thuộc nhiều tầng lớp, nghề nghiệp và thu nhập rất khác nhau .Xét theo yếu tố thu nhập, có khách hàng thuộc tầng lớp có thu nhập cao, thu nhập khá, thu nhập trung bình, do vậy có những hợp đồng có số tiền bảo hiểm chỉ 5 triệu đồng nhưng cũng có những trường hợp có số tiền bảo hiểm tới vài tỷ đồng. Nếu xét theo nghề nghiệp,
những người làm công ăn lương ,kinh doanh chiếm phần lớn, khách hàng là nông dân còn chiếm tỷ trọng khá nhỏ. Hiện tượng trục lợi trong BHNT cũng đã xuất hiện .
+ Trong thời gian qua, môi trường pháp lý cho hoạt động bảo hiểm nhân thọ ngày càng được hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, từng bước thiết lập và duy trì một thị trường cạnh tranh lành mạnh ,nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước đối với lĩnh vực này. Trước hết là sự ra đời của Luật Kinh doanh bảo hiểm, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/4/2001, tiếp đó là các nghị định (Nghị định số 42/2001 /NĐ-CP ngày 01/8/2001 quy định chi tiết thêm một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm ,NĐ 43/2001/NĐ-CP ngày 01/8/2001 quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm) và thông tư hưóng dẫn (Thông tư số 71/2001/thị trường-BTC ngày 28/8/2001, Thông tư số 72/2001/TT-BTC ngày 21/8/2001 hướng dẫn thi hành Nghị định 43/2001/NĐ-CP ngày 21/8/2001 của Chính phủ). Tuy vây, hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh BHNT ở Việt Nam còn chưa đồng bộ, một số quy định chưa rõ ràng, chưa thực sự phù hợp với tập quán BHNT, chưa tạo sự linh động lớn nhất có thể cho các doanh nghiệp hoạt động. Ngoài việc xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý, trong thời gian qua Nhà nước còn có những chính sách ưu đãi, hỗ trợ, thúc đẩy thị trường BHNT như ưu đãi về thuế ( theo Luật thuế gía trị gia tăng, hiện nay BHNT không thuộc đối tượng chịu thuế.
+ Chất lượng khai thác cũng được tăng lên đáng kể biểu hiện qua số phí bảo hiểm bính quân/ hợp đồng ngày càng cao, công tác đánh gía rủi ro được chú trọng hơn, tỷ lệ huỷ hợp đồng của toàn thị trường dưới 6%/năm (15) thấp hơn rất nhiều so với thị trường khác.
2.Tình hình triển khai sản phẩm ASGD tại Việt Nam
Mọi nghiệp vụ bảo hiểm dù nhân thọ hoặc phi nhân thọ cũng đều phải qua các bước: khai thác, đánh gía rủi ro, công tác quản lý, theo dõi và quản lý hợp đồng, công tác đề phòng, hạn chế tổn thất, công tác giám định. Mà nghiệp vụ BHNT thường là rất dài so với phi nhân thọ. Do vậy việc đánh giá kết quả kinh doanh của nghiệp vụ ASGD thuộc BHNT sẽ không được chi tiết bởi lẽ chúng ta mới triển khai ASGD được hơn 5 năm mà thời hạn tối thiểu cho một hợp đồng ASGD cũng là 5 năm. Vì chưa thể đánh giá chi tiết về tính hiệu quả được bài viết này chỉ nêu lên hoạt động của các công ty về sản phẩm An sinh giáo dục qua những năm triển khai.
2.1. Công tác khai thác
Khai thác là công việc đầu tiên có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của bất kỳ nghiệp vụ nào. Mục tiêu của công tác khai thác bảo hiểm là tác động được số đông người tham gia, thực chất của công tác này là tuyên truyền vận động các đối tượng hiểu về nội dung, mục đích, ý nghĩa của nghiệp vụ. Trong khi đó nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em không chỉ mới đối với mọi người dân mà còn mới đối với cả người làm trong công tác bảo hiểm. Do vậy, công tác tuyên truyền quảng cáo đối với nghiệp vụ này càng quan trọng hơn.
Làm tốt công tác khai thác có ý nghĩa rất lớn đối với việc triển khai ASGD, tạo cơ sở đảm bảo cho việc triển khai ASGD thành công. Thông qua khâu khai thác mới vận động được mọi người tham gia bảo hiểm từ đó có phí bảo hiểm để hình thành nên quỹ bảo hiểm, tạo điều kiện thực hiện các công việc tiếp theo. Ngược lại khâu khai thác làm không tốt, số lượng người tham gia ít, không đảm bảo nguyên tắc “số đông bù số ít” thì việc hoạt động của công ty khó có thể được bảo đảm. Hơn nữa sản phẩm ASGD là loại hình sản phẩm phải bán tức là loại hàng hoá người bán phải làm cho người mua phát sinh nhu cầu và đi
đến quyết định mua cho nên phải chú trọng khâu khai thác là tất yếu
của mọi công ty bảo hiểm.
Nhận thức được điều đó, các công ty BHNT một mặt tiến hành các biện pháp tuyên truyền, giải thích trên các phương tiện thông tin đại chúng về các điều khoản quy tắc chung và quyền lợi bảo hiểm khi tham gia BHNT, mặt khác các công ty chú trọng xây dựng mạng lưới đại lý, cộng tác viên rộng khắp. Trong những năm đầu mới khai thác đến giữa 1999 chỉ có một mình công ty Bảo Việt độc quyền kinh doanh trên thị trường Việt Nam nên số lượng đại lý mà công ty này tuyển dụng là khá kỹ, chủ yếu tuyển dụng những người có trình độ đại học và cũng vì vậy số lượng đại lý tuyển vào còn khá ít. Hơn nữa, giai đoạn đầu khi mới triển khai ASGD Bảo Việt cũng gặp không ít khó khăn về cơ sở hạ tầng, thị trường và nhận thức của người dân. Kể từ cuối năm 1999 với sự xuất hiện của các công ty BHNT nước ngoài dẫn đến thị trường của sản phẩm ASGD trở nên sôi động. Bảo Việt không còn giữ vị trí “một mình một chợ” như trước đây nữa nên vấn đề cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường ngày càng trở lên gay gắt. Cho nên buộc Bảo Việt cũng như các công ty khác phải tập trung nguồn lực cho đào tạo thêm số lượng đại lý, đầu tư cơ sở hạ tầng và có các biện pháp ưu đãi trong việc tuyển dụng. Do đó số lượng đại lý ngày càng đông hơn, chất lượng khai thác ngày càng tốt hơn. Năm 1997 tổng số đại lý trên toàn thị trường là 1000 thì năm 2001 là 42150, tăng gấp 42 lần so với năm 1997 và doanh thu phí sản phẩm ASGD nếu năm 1996 đạt 0,369 tỷ đồng thì năm 2001 đạt 1556 tỷ đồng, gấp 4216 lần so với 1996 và đến tháng 11/2002 đạt 2009 tỷ đồng (Nguồn: từ đồ thị 12, bảng 2)
Bảng 2: Số lượng đại lý của các công ty qua các năm
Đơn vị: người
1997 | 1998 | 1999 | 2000 | 2001 |
Có thể bạn quan tâm!
- Ý Nghĩa Của Sản Phẩm Bảo Hiểm An Sinh Giáo Dục
- Tình Hình Triển Khai Sản Phẩm Bảo Hiểm Asgd Tại Việt Nam
- (Nguồn:tạp Chí Bảo Hiểm Số 1/2002, T20)
- Quỹ Đầu Tư Các Công Ty Bhnt Có Thể Cung Cấp Cho Nền Kinh Tế
- Định Hướng Và Dự Báo Về Bảo Hiểm Asgd Tại Việt Nam
- Một Số Giải Pháp Nhằm Hoàn Thiện Và Phát Triển Sản
Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.
1000 | 3000 | 4500 | 8000 | 18000 | |
Prudential | - | - | 500 | 7000 | 13500 |
AIA | - | - | - | 2000 | 5000 |
Manulife | - | - | - | 2000 | 4000 |
BM-CMG | - | - | - | 4000 | 1650 |
Tổng | 1000 | 3000 | 5000 | 23000 | 42150 |
Bảo Việt
(Nguồn: -Tạp chí bảo hiểm và tái bảo hiểm số 3 tháng 8/2001
-Thời báo kinh tế Việt Nam số 19 tháng 11/2001
-Thời báo kinh tế Sài gòn số 15 tháng 11/2001)
Đồ thị 12: Doanh thu ASGD trên thị trường 2000-2001
Nguồn: Báo cáo năm và Sơ kết nửa năm của các công ty gửi lên Hiệp hội bảo hiểm
Doanh thu ASGD tr ên th ị tr ường
2000-2002
Tỷ đồn g
3000
2009
2000
1000
0
1081.96
1556
Năm 2000 Năm 2001 T1-10/ 2002
Ngoài ra, để công tác khai thác có hiệu quả các công ty cũng tiến hành nghiên cứu thị trường và bắt đầu mở ra nhiều kênh khai thác mới thông qua các hợp đồng đại lý và thoả thuận hợp tác với các đối tác ngân hàng như Bảo Việt với ICB, VP BANK, PJICO, Prudential với ACB…Đây là một kênh mà ngành bảo hiểm châu Âu coi là rất có hiệu quả.
2.2.Công tác đánh gía rủi ro
Cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác, bảo hiểm ASGD cũng rất coi trọng công tác đánh giá rủi ro nhằm loại bỏ hoặc từ chối không bảo hiểm cho các sự cố rủi ro chắc chắn xảy ra liên quan đến trách nhiệm bồi thường của nhà bảo hiểm. Bên cạnh đó, ASGD còn mang nét đặc thù riêng, việc trả tiền bảo hiểm là chắc chắn, chỉ có thời điểm trả tiền bảo hiểm là không chắc chắn. Do vậy với những rủi ro chắc chắn xảy ra thì việc từ chối không nhận bảo hiểm là cần thiết.
Yêu cầu của công tác này rất cao, khoản chi cho nó được tính vào phí bảo hiểm, nó được chi ngay vào thời điểm ký hợp đồng và hiệu qủa kinh doanh của nghiệp vụ ASGD cũng phần nào phụ thuộc vào công tác này. Nội dung công việc bao gồm:
- Đánh giá tình trạng sức khoẻ của người được bảo hiểm, người
tham gia bảo hiểm.
- Đánh giá khả năng tài chính của khách hàng liên quan đến trách
nhiệm đóng phí đủ, đúng hạn trong suốt thời hạn hợp đồng.
- Đánh giá hành vi pháp luật của người tham gia bảo hiểm, xem xét mục đích của người tham gia bảo hiểm (có lợi dụng bảo hiểm để trục lợi bảo hiểm không?).
Năm 1998, do “một mình một chợ” công tác đánh giá rủi ro của Bảo Việt phần nào được xem nhẹ, hầu hết khách hàng khi kê khai giấy yêu cầu bảo hiểm xong là cán bộ khai thác viết hoá đơn thu phí và lập tức công ty phát hành hợp đồng. Tuy nhiên, chưa có trường hợp nào trục lợi bảo hiểm xảy ra.
Kể từ năm 1999 với ảnh hưởng của sự gia nhập thị trường của Prudential và các công ty khác công tác đánh gía rủi ro được cải thiện nhiều. Giấy yêu cầu bảo hiểm sau khi được đánh giá rủi ro, chấp nhận bảo hiểm thì các công ty mới tiến hành thu phí bảo hiểm đầu tiên và hợp đồng bảo hiểm mới có hiệu lực. Kết quả của công tác đánh giá rủi ro ban đầu rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến chất lượng khai thác bởi vì
các cán bộ khai thác là những người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng. Để thực hiện công việc trên, cán bộ khai thác của các công ty được cung cấp tài liệu, được tập huấn quy trình đánh giá rủi ro và thường xuyên bị kiểm tra, chấn chỉnh trong việc thực hiện quy trình khai thác của công ty mình. Tất cả các giấy yêu cầu bảo hiểm đều được cập nhật, sau đó đánh giá rủi ro theo các yếu tố về sức khoẻ, tài chính của người tham gia bảo hiểm để xem xét quyết định chấp nhận hoặc từ chối bảo hiểm.
Các công ty thường nghiên cứu tìm hiểu các trường hợp hoàn phí trong thời hạn cho phép của khách hàng, những trường hợp chết do bệnh tật, tiến hành kiểm tra sức khoẻ những khách hàng có độ tuổi cao và có nghi ngờ về những điều kê khai trong giấy yêu cầu bảo hiểm để đánh giá tình hình sức khoẻ, bệnh tật và các nguyên nhân gây tử vong cũng như khả năng tài chính của khách hàng giúp cho việc hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro.
Các công ty đã từ chối chấp nhận bảo hiểm cho một số trường
hợp, chủ yếu do các nguyên nhân sau:
+ Người tham gia bảo hiểm không đảm bảo sức khoẻ
+ Người tham gia bảo hiểm không phải là bố mẹ trẻ em hay người giám hộ hợp pháp hoặc không đủ giấy tờ hợp lý cần thiết để nhận bảo hiểm như quy định trong điều khoản.
+ Người tham gia bảo hiểm quá tuổi theo quy định.
3.Nhận xét và đánh gía về bảo hiểm ASGD của Việt Nam
trong thời gian qua
a.Đánh gía chung về nghiệp vụ
Nhìn chung, nghiệp vụ ASGD ngày càng được cải thiện qua các năm từ công tác khai thác cho đến công tác đánh gía rủi ro. Cụ thể:
- Mạng lưới khai thác ngày càng được mở rộng, chất lượng cán bộ khai thác ngày càng được nâng cao.
- Đã hình thành mạng lưới khai thác với cơ cấu tổ chức hoàn chỉnh từ cấp công ty, phòng, tổ và bắt đầu có sự hợp tác ngoài ngành.
- Công tác tuyên truyền quảng cáo đã làm cho nhiều người hiểu và tin tưởng vào sự hoạt động của các công ty nên đã làm cho nhu cầu ASGD tăng.
- Công tác đánh gía rủi ro ngày càng được chú trọng hơn do bắt đầu
xuất hiện hiện tượng trục lợi bảo hiểm
- Trình độ cán bộ đánh gia rủi ro được nâng lên khiến chất lượng đánh gía tăng lên.
Tuy nhiên cần có một số vấn đề cần lưu ý:
- Cuộc khủng hoảng tài chính khu vực vẫn chưa khắc phục hết dẫn đến tâm lý vẫn còn hoang mang của khách hàng về sản phẩm ASGD, đặc biệt số hợp đồng ASGD dài hạn chưa tăng nhiều.
- Trình độ khai thác của các cán bộ không đồng đều. Một số cán bộ khai
thác còn thiếu kinh nghiệm, cũng như các kỹ năng giao tiếp còn yếu.
- Để nâng cao chất lượng khai thác, các công ty nên khuyến khích thay đổi phương pháp khai thác và khuyến khích cán bộ khai thác tập trung trong việc giới thiệu, khai thác đối với từng cá nhân.
- Một số cán bộ còn chưa xác định được đúng đắn nghề nghiệp, chưa
thực sự chăm chỉ, quyết tâm.
- Công tác đánh gía rủi ro dù đã được chú trọng vẫn chưa thực sự đi
vào chất lượng, vẫn còn chạy theo số lượng hợp đồng mới.
- Trình độ của cán bộ khai thác còn hạn chế chưa thực sự am hiểu
sâu sắc về y học, luật học
b.Hiệu quả kinh tế xã hội của bảo hiểm ASGD tại Việt Nam
*ASGD tạo công ăn việc làm cho nhiều người
Thời gian qua ngành BHNT nói chung và ASGD nói riêng đã thu hút, tạo công ăn việc làm cho một lực lượng đông đảo lao động dưới hình thức đại lý chuyên nghiệp, đại lý bán chuyên nghiệp và các cộng