tác viên. Năm 1997: 1000 người, 1998: 3000 người, 1999: 5000 người,
2000: 23000, đến cuối 2001, tổng số đại lý đạt 42150 người (Nguồn bảng 2). Với những đặc trưng nổi bật hoàn toàn tự chủ về thời gian, đòi hỏi tính tự giác cao, hưởng thù lao theo kết quả hoạt động, tự hạch toán độc lập, không yêu cầu quá cao về bằng cấp, nghề đại lý tư vấn BHNT và ASGD đã thực sự trở thành một nghề chuyên nghiệp, được xã hội thừa nhận và là nghề có thu nhập khá cao ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời BHNT&ASGD cũng tạo việc làm cho hàng nghìn người với tư cách là cán bộ, nhân viên của các doanh nghiệp BHNT, ngoài ra còn tạo việc làm cho các ngành khác có liên quan như công nghệ thông tin, ngân hàng, in ấn, quảng cáo
*Tạo kênh huy động vốn và cung cấp vốn lớn cho nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển
Với chứcnăng gom nhặt và tập trung những khoản tiền nhỏ, nhàn rỗi nằm rải rác trong dân cư, BHNT& ASGD đã hình thành một kênh đầu tư lớn , cung cấp vốn cho nền kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn, phục vụ đắc lực cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá, góp phần phát triển kinh tế xã hội. So với ngành ngân hàng, BHNT&ASGD tuy mới có thâm niên còn ngắn nhưng đã thực sự trở thành một kênh huy động và phân phối hiệu quả cho nền kinh tế. Với số tài sản quản lý được tích luỹ (dưới hình thức quỹ dự phòng) ngày càng lớn, cho phép các doanh nghiệp BHNT thực hiện các khoản đầu tư lớn dưới các hình thức như góp vốn liên doanh, mua cổ phiếu, cho vay, tham gia các dự án đầu tư, mua trái phiếu, tín phiếu kho bạc nhà nước, gửi tiết kiệm ngân hàng ….Lấy năm 2001 làm ví dụ, tổng số phí ASGD trên thị trường đạt 1556 tỷ (20), chiếm 0,30%GDP (GDP năm 2001 đạt 506545 tỷ đồng – Thời báo kinh tế VN&Thế giới 2002), tổng số phí BHNT toàn thị trường đạt 2768 tỷ đồng (21), chiếm 0,55% GDP . V à tính tới thời điểm này, tổng số vốn mà các doanh BHNT cung cấp cho
nền kinh tế lên tới trên 4000 tỷ đồng (chủ yếu là quỹ dự phòng được tích tụ qua các năm, đặc biệt là quỹ ASGD chiếm tỷ trọng hơn một nửa trong tổng quỹ) (22). Hoạt động đầu tư tài chính cũng trở thành xương sống nâng đỡ cho hoạt động kinh doanh BHNT nói chung và ASGD nói riêng, tạo tiền đề cho các doanh nghiệp BHNT tham gia vào thị trường tài chính, tạo lập các quỹ đầu tư. Trên thực tế các doanh nghiệp BHNT đã tham gia vào rất nhiều dự án đầu tư, là cổ đông lớn trong nhiều công ty cổ phần đồng thời cũng là thành viên thường xuyên trong các cuộc đấu thầu tín phiếu, trái phiếu Kho bạc và cũng là “người chơi” lớn trên thị trường chứng khoán. Năm 1999, Bảo Việt thành lập Công ty chứng khoán Bảo Việt – công ty chứng khoán đầu tiên ở Việt Nam, tạo tiền đề trở thành tập đoàn bảo hiểm – tài chính tổng hợp hàng đầu ở Việt Nam. Tuy nhiên, có thể thấy, thị trường đầu tư ở Việt Nam mới trong giaia đoạn hình thành, còn thiếu các công cụ đầu tư, nhất là các công cụ đầu tư dài hạn, do vậy hạn chế rất lớn hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp.
Bảng 3: Quỹ đầu tư các công ty BHNT có thể cung cấp cho nền kinh tế
1996 | 1997 | 1998 | 1999 | 2000 | 2001 | |
Quỹ đầu tư (tỷ đồng) | 0,7 | 15 | 178 | 528 | 1654 | 4000 |
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Triển Khai Sản Phẩm Bảo Hiểm Asgd Tại Việt Nam
- (Nguồn:tạp Chí Bảo Hiểm Số 1/2002, T20)
- Nhận Xét Và Đánh Gía Về Bảo Hiểm Asgd Của Việt Nam
- Định Hướng Và Dự Báo Về Bảo Hiểm Asgd Tại Việt Nam
- Một Số Giải Pháp Nhằm Hoàn Thiện Và Phát Triển Sản
- Bảo hiểm nhân thọ và an sinh giáo dục - 13
Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.
Ghi chú: Quỹ đầu tư ước tính vào cuối năm, tương ứng với quỹ
dự phòng nghiệp vụ, không tính nguồn vốn điều lệ, vốn chủ sở hữu. Nguồn: Báo cáo năm 1996, 1997, 1998 của Bảo Việt và Báo cáo năm 1999, 2000, 2001 của các Công ty gửi lên Hiệp hội bảo hiểm
*ASGD góp phần tạo lập cuộc sống ổn định , thịnh vượng và giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước
Qua việc giải quyết đầy đủ và kịp thời quyền lợi của khách hàng, các doanh nghiệp BHNT đã giúp những gia đình chẳng may gặp rủi ro nhanh chóng khắc phục rủi ro, ổn định cuộc sống đồng thời cũng giúp cho khách hàng thực hiện tiết kiệm dàihạn và đều đặn nhằm đạt những kế hoạch đã đặt ra, tạo lập cuộc sống đầy đủ về tài chính, hạnh phúc, thịnh vượng. Năm 1997, tổng chi bồi thường ASGD của Bảo Việt là 5,33 triệu đồng, năm 1998: 4,9 triệu đồng. Năm 2001, Bảo Việt đã giải quyết quyền lợi cho 36962 khách hàng, tính đến tháng 11 năm 2002 giải quyết cho 44111 khách hàng (23). Còn tính tới thời điểm hiện nay Prudetial đã giải quyết quyền lợi cho hơn 500 trường hợp (24). Tính đến quý I/2002 các doanh nghiệp đã chi trả khoảng 614 triệu (25) góp phần đảm bảo tài chính cho người tham gia bảo hiểm.
c.Đánh gía chung về kết quả triển khai sản phẩm bảo hiểm
ASGD tại Việt Nam
Kể từ cuối năm 1999 tới nay, với sự gia nhập thị trường của các công ty bảo hiểm nước ngoài, thị trường ASGD trở lên sôi động và tính cạnh tranh trở lên quyết liệt hơn. Sản phẩm bảo hiểm trẻ em mà các công ty đưa ra rất khác nhau, người tham gia bảo hiểm có cơ hội lựa chọn và so sánh lợi ích thu được từ việc mua sản phẩm bảo hiểm trẻ em ở nhiều công ty hơn. Tuy nhiên một điều đánh mừng là dù có sự ra nhập thị trường của các công ty bảo hiểm nước ngoài năm 2000 Tổng công ty Bảo Việt vẫn dẫn đầu thị trường với doanh thu phí là 872,86 tỷ đồng, chiếm 81% thị phần ASGD trên thị trường. Tiếp theo là Prudetial với doanh thu đạt 174,5 tỷ, chiếm 16% thị phần (26). AIA, Manulife, Bảo Minh –CMG vẫn chưa tìm được chỗ đứng vững chắc cho mình trên thị trường Việt Nam. Lời giải thích cho việc Bảo Việt thống lĩnh thị trường là do thời gian ra nhập thị trường do đó có sẵn mạng lưới phân phối kèm theo lợi thế hiểu rõ thị trường nội địa cộng với lý do có tính quyết định đó là sản phẩm ASGD tại Bảo Việt là sản phẩm bảo hiểm kép, bảo hiểm thương tật toàn bộ vĩnh viễn cho cả chủ hợp đồng và
người được bảo hiểm. Bảo hiểm kép cũng là lợi thế của Phú tích luỹ gíao dục của Prudetial. Ngoài ra lợi thế do việc chi trả số tiền bảo hiểm còn được thực hiện khi người được bảo hiểm chết cùng với công tác quảng cáo rầm rộ đã giúp cho Prudential vươn lên vị trí số 2 trên thị trường, vượt xa các đối thủ mới ra nhập khác.
Đồ thị 12: Doanh thu ASGD trên thị trường theo công ty năm 2000 -2002
Doanh thu ASGD trên th ị tr ường
2000-2002
Tỷ đồn g
3000
2009
2000
1000
0
1081.96
1556
Năm 2000 Năm 2001 T1-10/ 2002
Nguồn: Báo cáo năm 2000, 2001 và Sơ kết nửa năm, Báo
cáo Quý 3 của các công ty gửi lên Hiệp hội bảo hiểm
Bảng 5: Thị phần ASGD của các công ty năm 2000
Prudential | Manulife | AIA | Bảo Minh-CMG | |
81% | 16% | 3% | 0,3% | 0,2% |
Nguồn: Báo cáo năm 2000 của các công ty gửi lên Hiệp hội bảo hiểm Sang năm 2001, 2002 doanh thu phí bảo hiểm trẻ em tiếp tục tăng điều
đó phản ánh nỗ lực của các công ty trong việc khai thác thị trường, đặc biệt là các công ty mới ra nhập thị. Các công ty này đã đưa ra có những chiến lược
thu hút khách hàng hiệu quả hơn với sự điều chỉnh sản phẩm phù hợp hơn. Như trên đã đề cập, sản phẩm Phú tích luỹ gíao dục của Prudential là sản phẩm có tính ưu việt, người tham gia bảo hiểm được thanh toán số tiền bảo hiểm ngay cả khi người được bảo hiểm chết cộng với bảo hiểm kép và kinh nghiệm trên thị trường thế giới đã giúp cho Prudential tăng thị phần một cách đáng ngạc nhiên chiếm 38% năm 2001, trở thành đối trọng của Bảo Việt trên thị trường này (Bảo Việt giảm còn 52% năm 2001) (26).
Đồ thị 13: Doanh thu ASGD trên thị trường theo công ty năm 2001
Nguồn: Báo cáo năm 2000 của các Công ty gửi lên Hiệp hội bảo hiểm
Doanh thu phí ASGD theo công ty
2001
T ỷ
1000
800
788
đồng 600
400
200
0
518.42
105
30 9.75
Việt
Bảo Prudentia l Manulife
AIA
Bảo Minh CMG
Bảng 6: Thị phần ASGD của các công ty năm 2001 Nguồn: Giống đồ thị 13)
Prudential | Manulife | AIA | Bảo Minh-CMG | |
52% | 38% | 6,9% | 2% | 0,6% |
Đồ thị 14:
Nguồn: Báo cáo sơ kết nửa năm 2002 và Báo cáo Quý của các công ty
gửi lên Hiệp hội bảo hiểm
Doanh thu phí ASGD theo các công ty
77
T1->11/2002
1200
1002.6
Bảng 7: Thị phần ASGD của các công ty 1->11/2002
Prudential | Manulife | AIA | Bảo Minh- CMG | |
50% | 39% | 8% | 3% | 1% |
Nguồn: Báo cáo sơ kết nửa năm và Báo cáo Quý 3 của các công ty gửi lên Hiệp hội bảo hiểm
Một xu hướng quan trọng khác đang diễn ra trên thị trường mà chúng ta cần quan tâm là cho dù doanh thu phí ASGD vẫn tăng qua các năm nhưng xét về tỷ trọng thì có xu hướng giảm dần (xem bảng 8). Đây là một xu hướng tất yếu xảy ra với bất kỳ thị trường nào. Bởi vì giai đoạn đầu khi mới triển khai bảo hiểm người dân còn chưa nhận thức hết lợi ích của các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ khác thì với lợi ích rõ ràng mà các sản phẩm bảo hiểm trẻ em đưa ra cùng với tâm lý ưa tiết kiệm và truyền thống “tất cả vì con em chúng ta” khiến cho bảo hiểm trẻ em chiếm thị phần lớn trong tổng doanh thu phí của BHNT. Còn khi nhận thức của người dân về bảo hiểm nhân thọ tăng lên thì ASGD có xu hướng giảm vì nếu coi đứa trẻ là bông hoa còn cha, mẹ chúng là gốc thì ASGD hiện nay mới chỉ bảo hiểm được bông hoa mà chưa bảo hiểm được cái gốc đành rằng là khi bố mẹ chúng bị TTTBVV hoặc bị chết đứa trẻ sẽ nhận được số tiền bảo hiểm khi hợp đồng đáo hạn nhưng nhưng từ khi bố, mẹ chúng bị TTTBVV hoặc bị chết thì chúng sống bằng gì khi mà tuổi còn nhỏ ? Như vậy mục đích của đảm bảo tương lai liệu có thực
hiện được không? Trong khi đó các loại hình bảo hiểm khác cho phép thanh toán một số tiền lớn để nuôi đứa trẻ đến khi trưởng thành. Hiện nay, bên cạnh xu hướng trên, người tham gia bảo hiểm ASGD vẫn chưa nhiều còn do rất nhiều nguyên nhân khác. Thứ nhất, do tâm lý của nền kinh tế nông nghiệp người Việt Nam chưa quen đem tiền trong nhà ra cho người khác giữ hộ. Mặt khác do ảnh hưởng của tâm lý sợ lạm phát mà bảo hiểm ASGD có thời gian dài nên người dân còn chần trừ cân nhắc chưa mua. Thêm vào đó, cần phải nhấn mạnh rằng hai điều có tính quyết định đến việc có mua bảo hiểm bảo hiểm không là thu nhập và uy tín của công ty bảo hiểm thì ở Việt Nam đều thoả mãn đạt đến đỉnh cao. Thu nhập của người dân Việt Nam còn thấp nhiều khu vực còn chưa đủ ăn vậy thì làm sao có nhu cầu mua bảo hiểm. Còn uy tín của các công ty bảo hiểm hiện nay bị rất nhiều người nghi ngờ kể cả những người có trình độ học vấn cao.Tâm lý này vốn đã tiềm ẩn nay càng rõ hơn sau những vụ từ chối thanh toán tiền bảo hiểm của bất cứ sản phẩm bảo hiểm nhân thọ nào của các công ty bảo hiểm điển hình là vụ từ chối thanh toán cho con nghệ sỹ nhân dân Lê Dung của Prudential. Mặc dù trong vụ này, người mua bảo hiểm có lỗi khi không khai trung thực trong đơn yêu cầu bảo hiểm nhưng đáng lẽ công ty phải cẩn thận hơn trong việc đánh gía rủi ro để quyết định có yêu cầu bảo hiểm hay không. Đằng này công ty cứ thu tiền bảo hiểm sau đó có khiếu nại mới nói rõ là người mua bảo hiểm có lỗi. Như vậy là không chú trọng bảo vệ quyền lợi của khách hàng, không coi khách hàng là trung tâm. Vì vậy, các công ty vẫn chưa có uy tín cao đối với công chúng. Từ thực trạng này đặt ra yêu cầu nâng cao chất lượng triển khai nghiệp vụ từ công tác quảng cáo tuyên truyền cho đến chất lượng của người khai thác, người đánh gía rủi ro và người quả lý cũng như đạo đức nghề nghiệp. Cũng vì những lý do trên sản phẩm ASGD cần hoàn thiện để sức thu hút hơn với công chúng. Chỉ có như vậy ASGD mới duy trì được vị trí của mình trên thị trường.
Bảng 8: Doanh thu ASGD và BHNT qua 2000-2002
Nguồn : Báo cáo năm 2000, 2001 và Báo cáo sơ kết năm, Báo cáo quý 3 của các công ty gửi lên Hiệp hội bảo hiểm
2000 | 2001 | 1->11/2002 | |
Tổng phí BHNT (tỷ đồng) | 1285 | 2778 | 3698 |
Tổng phí ASGD (tỷ đồng) | 1081,96 | 1556 | 2009 |
+Bảo Việt | 872,86 | 788 | 1026 |
+Prudential | 174,5 | 518,42 | 780 |
+Manulife | 29 | 105 | 153 |
+AIA | 2,5 | 30 | 51,3 |
+Bảo Minh CMG | 1 | 9,75 | 22,1 |
Tỷ trọng phí ASGD/tổng | 84 | 56 | 54 |
phí BHNT (%) | |||
Tỷ trọng của từng công ty | |||
trong tổng phí ASGD (%) | |||
+Bảo Việt | 81 | 52 | 50 |
+Prudential | 16 | 38 | 39 |
+Manulife | 3 | 6,9 | 8 |
+AIA | 0,3 | 2 | 3 |
+Bảo Minh | 0,2 | 0,6 | 1 |
Bảng 9: Số lượng hợp đồng bảo hiểm trẻ em có hiệu lực tính đến
tháng 9/2002
Nguồn: Báo cáo nửa năm 2002 và Báo cáo quý 3 của các công ty gửi
lên Hiệp hội bảo hiểm
Bảo Việt | Prudetial | Manulife | AIA | BM- CMG | Tổng |
740300 | 243800 | 48800 | 18000 | 11700 | 1062600 | |
Tỷ trọng của số hợp đồng ASGD của từng công ty trên tổng số hợp đồng ASGD trên toàn thị trường(%) | 70 | 23 | 5 | 2 | 1 | 100 |