Bảo hiểm nhân thọ và an sinh giáo dục - 13

mua bảo hiểm cho công ty mình làm đại lý.


* Nhanh chóng thiết lập hệ thống cảnh bảo về các vấn đề tài chính của các công ty bảo hiểm nhân thọ

Vấn đề tài chính cũng là một trong những vấn đề rất quan trọng đối với ngành kinh doanh bảo hiểm nhân thọ để giúp ngành này “hoạt động trơn tru”. Vấn đề này ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại của các công ty bảo hiểm nhân thọ, vì nó liên quan đên khả năng thanh toán và khả năng chi trả cho người thụ hưởng khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Ví dụ, khi hợp đồng An sinh giáo dục đáo hạn thì phải trả cho người thụ hưởng số tiền bảo hiểm được quy định trong hợp đồng, hoặc khi người được bảo hiểm chết thì phải hoàn phí hoặc thanh toán một số tiền nhất định theo thoả thuận cho người tham gia. Như vậy, nếu không có khả năng chi trả thì doanh nghiệp sẽ không hoạt động bình thường. Luật Kinh doanh bảo hiểm, các nghị định, các thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính đã điều chỉnh về vấn đề này như sau: “doanh nghiệp phải luôn duy trì khả năng thanh toán trong suốt quá trình hoạt động (khi đã trích lập đầy đủ dự phòng nghiệp vụ theo quyđịnh và có biên khả năng thanh toán không thấp hơn biên thanh toán tối thiểu của Bộ Tài chính quy định. Biên khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm là phần chênh lệch giữa giá trị tài sản và các khoản nợ phải trả của doanh nghiệp bảo hiểm). Trong trường hợp mất khả năng thanh toán phải báo ngay cho Bộ Tài chính, thực trạng tài chính, nguyên nhân và các biện pháp khăc phục. Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không khôi phục khả năng thanh toán theo phương án đã được chấp thuận, Bộ Tài chính quyết định Ban kiểm soát khả năng thanh toán để khắc phục khả năng thanh toán của doanh nghiệp”. Tuy nhiên, đợi đến khi xảy ra tình trạng mất khả năng thanh toán mới báo cao lên Bộ Tài chính để tìm biện pháp khắc phục thì quá muộn sẽ gây tác động khó lường tới đời

sống kinh tế xã hội. Nhờ hệ thống cảnh báo các vấn đê tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, Bộ Tài chính có thể kiểm soát được khả năng tài chính của doanh nghiệp BHNT tạo điều kiện cho BHNT nói chung và sản phẩm An sinh giáo dục nói riêng phát triển một cách bền vững giảm thiểu các tác động xấu đến đời sống kinh tế xã hội.

*Vấn đề lãi suất kỹ thuật


Được giả định cho một thời gian rất dài, lãi suất kỹ thuật áp dụng cho tính phí Bảo hiểm nhân thọ và An sinh giáo dục là một yếu tố “đầu vào” vô cùng quan trọng, quyết định sự an toàn kinh doanh của mỗi doanh nghiệp và việc đảm bảo quyền lợi của khách hàng tham gia bảo hiểm. Thực tiễn vừa qua cho thấy, sự sụp đổ của hàng loạt công ty bảo hiểm nhân thọ Nhật Bản như Nissan, Kyoel, Daichi,... chủ yếu là do lãi suất kỹ thuật được đưa vào quá cao. Do vậy, Nhà nước cũng cần quan tâm thích đáng về vấn đề này (như đưa ra mức lãi suất kỹ thuật tham khảo) để giúp các doanh nghiệp xác định được lãi suất thích hợp đảm bảo khả năng thanh của doanh nghiệp bảo hiểm trong tương lai.

* Vấn đề phân định chức năng của cơ quan quản lý bảo hiểm

với Hiệp hội bảo hiểm

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

Thực tế đòi hỏi phải phân định chức năng của cơ quan quản lý bảo hiểm với Hiệp hội bảo hiểm một cách rõ ràng, hợp lý và phù hợp với thông lệ quốc tế theo hướng: cơ quan quản lý bảo hiểm chủ yếu tập trung vào việc xây dựng môi trường kinh doanh và công tác kiểm tra; Hiệp hội bảo hiểm tập trung vào công tác bảo vệ, điều hoà lợi ích giữa các doanh nghiệp bảo hiểm thành viên, đồng thời củng cố, tăng cường năng lực của cơ quan quản lý bảo hiểm. Như vậy, do chỉ tập trung vào một lĩnh vực như trên thì công tác quản lý sẽ có hiệu quả hơn.

c. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

Bảo hiểm nhân thọ và an sinh giáo dục - 13

Chúng ta đều biết Bảo hiểm nhân thọ nói chung và An sinh giáo

dục nói riêng chỉ ra đời và phát triển trong môi trường kinh tế, pháp lý nhất định. Những điều kiện kinh tế bao gồm: tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân trên một đầu người, mức thu nhập hợp pháp của dân cư, tỷ lệ lạm phát của đồng tiền, tỷ giá hối đoái...Những điều kiện xã hội gồm: dân số, tuổi thọ bình quân của người dân, trình độ học vấn, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh...Ở Việt Nam, Bảo hiểm nhân thọ và An sinh giáo dục ra đời và phát triển được hơn 5 năm, do đã đáp ứng được những điều kiện kinh tế

- xã hội cần thiết. Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta luôn đạt được mức tăng trưởng cao (dao động ở mức tăng trưởng 7% GDP/năm (d), chỉ số giá cả hàng tiêu dùng tăng nhẹ ở mức một con số. Mức tăng trưởng kinh tế tăng kéo theo thu nhập bình quân đầu người/ tháng và thu nhập bình quân hộ gia đình/ năm tăng. Chẳng hạn, thu nhập bình quân lao động/ tháng ở Hà Nội năm 1999 là 533000VND/ tháng, ở thành phố Hồ Chí Minh là 934500/tháng; năm 2000 Hà Nội là 610500VND/tháng và thành phố Hồ Chí Minh là1057900VND/tháng (e). Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, với tốc độ tăng trưởng hiện nay chỉ mới tạo điều kiện thuận lợi cho ngành Bảo hiểm nhân thọ và An sinh giáo dục ra đời còn để phát triển thì cần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hơn nữa. Khi đó, người dân sẽ không còn tâm lý lo lạm phát làm mất giá đồng tiền và có tiền nhàn rỗi để đầu tư cho tương lai của con em. Và khi kinh tế phát triển, đi đôi với nó là rủi ro cũng tăng và yêu cầu của thị trường đối với người lao động ngày càng khắt khe hơn, khó tính hơn, người lao động của tương lai buộc phải đầu tư lớn hơn như đầu tư học đại học, cao học, nghiên cứu sinh hoặc du học... Vì vậy, sẽ làm tăng nhu cầu mua sản phẩm An sinh giáo dục để có sự đảm bảo tài chính chắc chắn cho con em khi người chủ hợp đồng gặp rủi ro và để có món tiền lớn đáp ứng nhu cầu trong tương lai của con em.

d. Đưa ra một số biện pháp khuyến khích


Bảo hiểm nhân thọ và ASGD có vai trò to lớn trong việc khắc phục rủi ro, ổn định cuộc sống, tạo công ăn việc làm cho nhiều người và là kênh huy động vốn lớn cho nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Vì vậy, nhà

nước cần có những chính sách hỗ trợ thúc đẩy ngành BHNT nói chung & ASGD nói riêng phát triển. Trước hết, đầu tư là một lĩnh vực hoạt động có tầm quan trọng sống còn đối với việc duy trì khả năng thanh toán theo hợp đồng ASGD của công ty bảo hiểm, bởi vì chắc chắn rằng dù người được bảo hiểm chết trước khi hợp đồng đáo hạn hay sống cho tới khi hợp đồng đáo hạn công ty bảo hiểm đều phải thanh toán một số tiền nhất định cho người thụ hưởng. Cho nên trong chính sách về đầu tư của nhà nước cần ưu tiên các doanh nghiệp BHNT chẳng hạn, đầu tư vào các công trình dự án an toàn vốn , lợi tức đầu tư cao để doanh nghiệp bảo hiểm có thể bảo toàn vốn và có lãi khi kinh doanh BHNT.

Ngoài ra, để tạo cho các DNBH một công cụ nữa trong việc thu hút khách hàng, nhà nước nên có chính sách ưu đãi thuế thu nhập đối với những người tham gia BHNT (giống như ở các nước khác). Với chính sách ưu đãi về thuế đối với người tham gia BHNT, nhà nước có thể thực hiện chính sách khấu trừ phần phí BHNT nói chung và phần phí ASGD nói riêng mà các cá nhân đóng ra khỏi thu nhập chịu thuế, miễn thuế (một phần hoặc toàn bộ) đối với số tiền BH mà người tham gia BH được nhận, cho phép tính (một phần hoặc toàn bộ) số phí BH mà doanh nghiệp đóng BHNT vào chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Bằng cách này sẽ thu hút được rất nhiều người tham gia BH, đặc biệt là khách hàng có thu nhập cao bởi vì thuế thu nhập mà khách hàng phải đóng có thể sẽ rất cao nếu thu nhập của họ quá cao so với mức bình thường. Với ưu tiên này mà người bảo hiểm sẽ quyết định tham gia BHNT thay cho hình thức tiết kiệm, như vậy đã tạo được lợi thế cho DNBH khi cạnh tranh liên ngành xảy ra. Thêm vào đó, để có thể phát triển nghề đại lý như một nghề chuyên nghiệp khi xác định thuế thu nhập cho đại lý cũng cần có cách tính phù hợp bởi để đạt được hợp đồng đại lý BHNT phải bỏ ra khá nhiều chi phí như chi phí đi lại, tiếp thị...(mỗi đại lý có thể coi là một “doanh nghiệp”).

2. Các giải pháp về phía các công ty BHNT


a. Tăng cường tuyên truyền quảng cáo


Trong nền kinh tế thị trường, quảng cáo là hoạt động không thể thiếu đối với mỗi doanh nghiệp. Quảng cáo nhằm tạo lập và củng cố sự thiện cảm, lòng tin, uy tín, sự gắn bó của khách hàng hiện tại cũng như khách hàng tiềm năng đối với doanh nghịêp, phân biệt doanh nghiệp với các doanh nghiệp cạnh tranh, giúp thông tin cho công chúng về sản phẩm, so sánh và phân biệt sản0 phẩm của doanh nghiệp với các sản phẩm cạnh tranh, xây dựng nhãn hiệu hàng hoá cũng như hỗ trợ khách hàng. Do vậy, quảng cáo có vai trò hết sức quan trọng trong việc xúc tiến thương mại. Điều dễ thấy là, một sản phẩm dù được thiết kế hoàn hảo đến mấy nhưng nếu khách hàng không biết đến sự tồn tại của nó thì mãi mãi chỉ là sản phẩm tồn kho, không thể trở thành thương phẩm. ASGD là một sản phẩm khá phức tạp và có tính trừu tượng cao, người mua không thể hình dung hết về sản phẩm. Thêm vào đó, nhu cầu về sản phẩm này là nhu cầu thụ động, khách hàng ít khi chủ động tìm doanh nghiệp để mua ASGD mà thường chỉ mua sau khi được người bảo hiểm thuyết phục, vận động. Vì vậy, DNBH càng cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng cáo. Có rất nhiều cách để quảngcáo ASGD. Trước hết phải phổ biến đối với mọi ngành, DNBH có thể quảng cáo về sản phẩm ASGD trên các phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo, tivi đặc biệt là Internet. Thứ hai, các công ty có thể tìm sự thừa nhận của công chúng bằng cách tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội, nhất là các hoạt động có khả năng thu hút sự quan tâm lớn của công chúng, dễ chinh phục lòng người như tài trợ thể thao, tham gia giữ gìn môi trường. Tham gia các hoạt động từ thiện.. tài trợ các chương trình hoạt động của trẻ em như vẽ, cắm trại, hỗ trợ quỹ học bổng cho trẻ em nghèo vượt khó.. là những biện pháp có ảnh hưởng lớn đến việc quảng bá sản phẩm ASGD. Thứ ba, để khách hàng đặt trọn niềm tin vào công ty, công ty cần gửi thư trực tiếp cho khách hàng cảm ơn khách hàng đã tham

gia sản phẩm ASGD để từ đó mối quan hệ giữa công ty và khách hàng ngày một gần gũi. Bên cạnh đó, ngoài việc tư vấn trực tiếp công ty có thể ghi âm, ghi hình về sản phẩm ASGD cũng như lợi ích của ASGD gửi cho khách hàng tiềm năng của mình để khách hàng có thời gian xem xét, cân nhắc. Cuối cùng, các công ty có thể tổ chức các buổi họp giới thiệu về sản phẩm của ASGD nhằm giúp người dân hiểu được sâu sắc hơn tác dụng của nó, giải đáp các thắc mắc của khách hàng. Ngoài các biện pháp trên, công ty có thể có rất nhiều biện pháp khác như in các tờ rơi quảng cáo dưới nhiều hình thức, tổ chức các buổi trả tiền bảo hiểm hàng loạt...để xúc tiến sản phẩm ASGD.

b. Tăng cường mở rộng mạng lưới đại lý khai thác

Hiện nay, sản phẩm ASGD được phân phối qua 2 kênh: kênh trực tiếp và kênh gián tiếp. Tuy nhiên, số hợp đồng được ký kết thông qua kênh trực tiếp chiếm tỷ lệ nhỏ mà chủ yếu là qua kênh trung gian gồm: đại lý BHNT, môi giới bảo hiểm... Trong đó, hình thức có hiệu quả nhất hiện nay là đại lý BHNT. Bởi ASGD đối với khách hàng không phải là mối quan tâm thường trực, do vậy để thông tin đến được với khách hàng và để nắm bắt được nhu cầu thì cần thiết phải có sự tiếp cận và tư vấn mà lượng khách hàng cần tiếp cận là rất đông nên đại lý BHNT tỏ ra có ưu thế trong việc giải quyết tư vấn, trao đổi thông tin. Vì đại lý BHNT có nhiều thế mạnh như vậy, các công ty cần mở rộng mạng lưới đại lý thông qua tăng số lượng cán bộ đại lý khai thác và phân bố đều các phòng khai thác ra các tỉnh thành trong cả nước. Nhờ đó có thể đi sâu được vào các thị trường tiềm năng như ở các tỉnh thành phố có số lượng lớn dân cư làm nghề buôn bán và lao động tự do còn chưa biết về ASGD nếu mở rộng vào thị trường này sẽ đem lại kết quả khai thác khả quan.

c.Đa dạng hoá các biện pháp khai thác và nâng cao chất lượng

khai thác

Biện pháp để khai thác ASGD hiện nay là qua các đại lý BHNT nhưng còn một kênh mà hiện nay các nước phát triển trên thế giới đang

áp dụng để hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh BHNT& ASGD đem lại kết quả cao mà ở Việt Nam chưa khai thác mạnh đó là thiết lập hệ thống ngân hàng bảo hiểm (chẳng hạn ở Tây Ban Nha trong năn 2000, hoạt động ngân hàng bảo hiểm chiếm khoảng 60% phí BHNT).Theo kênh phân phối này thì các công ty bảo hiểm ký hợp đồng thoả thuận với các ngân hàng trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, các ngân hàng có nhiệm vụ tìm kiếm khách hàng tiềm năng và ký hợp đồng bảo hiểm, còn các công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả hoa hồng trên tổng doanh thu phí bảo hiểm khai thác được. Kênh phân phối này có lợi thế ở chỗ tận dụng được đội ngũ nhân viên của ngân hàng, trụ sở giao dịch khang trang to lớn, chi phí hoạt động thấp, tận dụng được các nguồn thông tin và khách hàng sẵn có, các khách hàng ở đây thường là người có thu nhập cao trong xã hội, có khả năng tài chính để ký kết hợp đồng có giá trị lớn. Hiện nay, một số công ty bắt đầu thiết lập quan hệ đại lý với một số ngân hàng nhưng số lượng NH còn ít, các công ty cần đẩy mạnh hơn nữa trong việc khai thác kênh này.

Bên cạnh đó, một biện pháp khai thác tương đối phổ biến đối với các loại sản phẩm thông thường mà chưa được áp dụng rộng rãi trong nghiệp vụ ASGD đó là các hình thức khuyến mãi, tặng quà cho khách hàng. Hiện nay mới chỉ có Manulife tặng món quà tốt nghiệp cho khách hàng còn các công ty khác thì chưa. Khuyến mại có thể được tổ chức dưới nhiều hình thức như tặng quà cho người tham gia bảo hiểm, giảm phí cho người tham gia hợp đồng có số tiền bảo hiểm lớn, tặng quà cho khách hàng giới thiệu được nhiều khách hàng mới tham gia bảo hiểm...Đây là những hoạt động cần thiết và trong thực tế đã làm nên thành công cho nhiều doanh nghiệp ngoài ngành.

Để xúc tiến thương mại đối với ASGD, bên cạnh việc đa dạng hoá các biện pháp khai thác, các doanh nghiệp cần ngày càng nâng cao chất lượng khai thác, giảm đến mức tối đa tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng. Để nâng cao chất lượng khai thác sản phẩm ASGD cần rút kinh nghiệm giữa các

cán bộ khai thác, giữa các phòng khai thác. Những cán bộ khai thác có hợp đồng đã ký rồi mà khách hàng yêu cầu huỷ bỏ thì nên tìm hiểu rõ nguyên nhân và thuyết phục khách hàng tiếp tục duy trì hợp đồng.

Ngoài ra, để nâng cao chất lượng khai thác thì các công ty cần phải hoàn thiện sản phẩm ASGD của mình sao cho phù hợp với nhu cầu của người dân, đảm bảo phân biệt sản phẩm của công ty mình với đối thủ, đảm bảo sản phẩm của mình cung cấp nhiều quyền lợi cho khách hàng mà vẫn có lợi nhuận. Để làm được điều này các công ty phải tiến hành điều tra nghiên cứu nhu cầu của thị trường thông qua các biện pháp nghiên cứu thị trường như điều tra trực tiếp, nghiên cứu sản phẩm của đối thủ cạnh tranh về cả mặt thiết kế lẫn triển khai, nghiên cứu sản phẩm của các nước có nét tương đồng về trình độ phát triển, về văn hoá truyền thống. Thêm vào đó phải không ngừng học hỏi kinh nghiệm tính phí hợp lý, phí phải có tính cạnh tranh cao mà công ty vẫn có lãi. Hiện nay, có một số quyền lợi bảo hiểm ở một số công ty BHNT cung cấp sản phẩm ASGD mà tác giả thấy là các công ty khác cần học hỏi khi đưa ra sản phẩm ASGD mới trong tương lai. Đó là:

- Cho phép người tham gia bảo hiểm ASGD có quyền chuyển nhượng hợp đồng BH ASGD của Prudential. Điều này làm tăng tính thanh khoản của hợp đồng ASGD.

- Tặng một “món quà tốt nghiệp” trị giá 20% số tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm vào ngày kỉ niệm hợp đồng bảo hiểm khi trẻ 22 tuổi dù không vào đại học của Manulife. Điều này giúp mở rộng quyền lợi người tham gia bảo hiểm.

- Cung cấp sản phẩm bổ sung: “quyền lựa chọn đảm bảo thời giá” cho khách hàng khi mua ASGD của Manulife. Điều này rất có ý nghĩa khi người dân VN luôn có tâm lý e ngại lạm phát và mất giá đồng tiền.

- Cho phép “bảo hiểm tạm thời” của AIA

Xem tất cả 123 trang.

Ngày đăng: 29/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí