Thứ hai, xác định rõ loại biện pháp bảo đảm mà các bên chủ thể phải áp dụng khi dùng GTCG làm tài sản bảo đảm chỉ là biện pháp cầm cố, chỉ là biện pháp thế chấp hay được quyền lựa chọn áp dụng một trong hai loại biện pháp này.
Giao dịch bảo đảm bằng GTCG được quy định tại BLDS năm 2005, Nghị định số 163 và các văn bản pháp luật khác như Luật CCCCN, Quy chế phát hành GTCG … Tuy nhiên, giữa các văn bản pháp luật này quy định không thống nhất về loại biện pháp bảo đảm bằng GTCG. Bộ luật Dân sự năm 2005 thì quy định chung rằng, bất kỳ loại tài sản nào cũng có thể lựa chọn đem làm tài sản thế chấp và tài sản cầm cố, kể cả GTCG. Còn các văn bản khác từ Luật CCCCN, Nghị định số 163 đến Quy chế phát hành GTCG đều quy định GTCG là tài sản dùng để cầm cố. Khi áp dụng các quy định pháp luật này vào thực tế, mặc dù BLDS năm 2005 có hiệu lực áp dụng cao hơn các văn bản liệt kê trên đây, nhưng hầu như các TCTD và bên bảo đảm chỉ áp dụng biện pháp cầm cố GTCG, mà không sử dụng biện pháp thế chấp GTCG như quy định của BLDS năm 2005. Điều này đã làm cho quy định về thế chấp GTCG tại Bộ luật này trở nên "thừa thãi" và "vô tác dụng", nguyên tắc áp dụng pháp luật cũng bị vi phạm khi văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn lại không được coi trọng để áp dụng trong thực tế.
Ngoài ra, có thực tế là các TCTD hầu như lại xác định nhầm sổ tiết kiệm là GTCG nên đem sổ tiết kiệm làm tài sản cầm cố, vì vậy đã làm cho giao dịch cầm cố sổ tiết kiệm vừa không đúng bản chất pháp lý, vừa có thể xảy ra rủi ro khi mà thời điểm có hiệu lực của cầm cố sổ tiết kiệm là thời điểm chuyển giao sổ tiết kiệm trong khi số tiền tiết kiệm lại chưa được chuyển giao. Đúng ra, sổ tiết kiệm chỉ là một chứng thư, giấy chứng nhận sở hữu số tiền tiết kiệm mà bên thế chấp phải chuyển giao cho TCTD nhận thế chấp khi các bên áp dụng biện pháp thế chấp số tiền gửi tiết kiệm để bảo đảm tiền vay.
Chính vì vậy, cần có sự sửa đổi bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành theo hướng ghi nhận thống nhất loại biện pháp bảo đảm áp dụng đối với tài sản là GTCG. Giấy tờ có giá sẽ chỉ được dùng làm tài sản thế chấp hay chỉ dùng làm tài sản cầm cố hoặc có thể áp dụng một trong hai biện pháp cầm cố và thế chấp tùy lựa chọn của các bên chủ thể. Cần có sửa đổi để tạo ra sự thống nhất giữa quy định của Bộ luật Dân sự với các văn bản hướng dẫn về giao dịch bảo đảm của, cũng như các văn bản pháp luật chuyên biệt, chuyên ngành khác của NHNN, của Ủy ban Chứng khoán có quy định về việc dùng GTCG làm tài sản bảo đảm.
Có sửa đổi được thống nhất như vậy, thì việc áp dụng trên thực tế mới rõ ràng, mới bám sát quy định của pháp luật và hơn nữa là không xảy ra tình trạng coi các văn bản hướng dẫn dưới luật là "luật gốc", chỉ áp dụng theo nó.
Thứ ba, cần có quy định thống nhất giữa pháp luật về hôn nhân gia đình với hệ thống các văn bản về GTCG và bảo đảm tiền vay bằng GTCG đối với việc phân định quyền sở hữu GTCG của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Chủ sở hữu GTCG có đương nhiên được xác định bằng cách dựa vào tên của người được ghi trên GTCG (đối với GTCG ghi danh) và dựa vào việc ai là người đang cầm giữ GTCG (đối với GTCG vô danh). Hay phải xác định chủ sở hữu GTCG dựa vào nguyên tắc xác định và chứng minh tài sản chung, riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Đây quả thật là vấn đề khó đã gây ra nhiều tranh cãi, nhiều quan điểm khác nhau. Các TCTD đứng giữa lựa chọn "một mất, một còn" hoặc là xem đó là tài sản chung của hai vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nên đưa ra các yêu cầu rất chặt chẽ về điều kiện, thủ tục nhận GTCG làm tài sản bảo đảm gây ra nhiều phiền hà, khó khăn cho bên vay vốn cũng như bên bảo đảm; hoặc là xem đó là tài sản riêng của người được ghi trên GTCG (đối với GTCG ghi danh) và người đang cầm giữ GTCG (đối với GTCG vô danh) để xác định người đó là chủ sở hữu duy nhất GTCG nên họ có toàn quyền định đoạt GTCG khi dùng làm tài sản bảo đảm, do đó không yêu cầu các thủ tục
rườm rà như chứng minh tài sản riêng, hay yêu cầu cả hai vợ chồng cùng ký vào hợp đồng bảo đảm nhưng chính TCTD lại đứng trước rủi ro rất lớn khi nguy cơ chỉ thu được một nửa hoặc không thu được số tiền của GTCG luôn hiện hữu nếu người vợ hoặc chồng của chủ sở hữu GTCG có tranh chấp về quyền sở hữu GTCG. Khó khăn của các TCTD khi nhận GTCG làm tài sản bảo đảm đó là phải giải được bài toán tài sản chung, tài sản riêng đối với GTCG.
Để tháo gỡ khó khăn này cho các bên chủ thể trong giao dịch bảo đảm tiền vay bằng GTCG, pháp luật hôn nhân gia đình và pháp luật về GTCG cần có quy định thống nhất đối với vấn đề xác định quyền sở hữu đối với tài sản là GTCG của một người trong thời kỳ hôn nhân. Hoặc ít nhất pháp luật về bảo đảm tiền vay cũng phải có văn bản hướng dẫn về việc xác định GTCG khi GTCG được dùng làm tài sản bảo đảm. Có như vậy thì việc nhận GTCG làm tài sản bảo đảm tiền vay mới có cơ sở pháp lý thống nhất để thực hiện, và sẽ không xảy ra tình trạng mỗi TCTD đưa ra một quy định riêng, mỗi TCTD làm theo một kiểu riêng chẳng ai giống ai. Và rõ ràng nếu thực hiện được theo cách thống nhất thì cả bên vay, bên bảo đảm và TCTD đều hài lòng vì đã có pháp luật bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ tư, cần có quy định cụ thể, rõ ràng về cơ chế và quy trình thực hiện nhận tài sản bảo đảm là GTCG đặc biệt là loại GTCG đã niêm yết, trong đó xác định rõ các trình tự, thủ tục thực hiện nhận GTCG làm tài sản bảo đảm, trình tự thủ tục và cách thức định giá, xác định giá trị của GTCG, quy định dự liệu xử lý các trường hợp GTCG tăng, giảm giá trị, quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm phối hợp của các bên có liên quan đến giao dịch bảo đảm bằng GTCG như công ty lưu ký, tổ chức phát hành GTCG,...
Có thể bạn quan tâm!
- Chuyển Giao Và Quản Lý Tài Sản Bảo Đảm Là Giấy Tờ Có Giá
- Tranh Chấp Và Giải Quyết Tranh Chấp Về Bảo Đảm Tiền Vay Bằng Giấy Tờ Có Giá Tại Tổ Chức Tín Dụng
- Các Yêu Cầu Của Việc Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bảo Đảm Tiền Vay Bằng Giấy Tờ Có Giá Tại Tổ Chức Tín Dụng Ở Việt Nam
- Bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại các tổ chức tín dụng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn - 13
Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.
Có một thực tế hiện nay là biện pháp bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD đã được thực hiện tại hầu hết các TCTD, và là biện pháp được áp dụng khá phổ biến trong hoạt động cho vay của TCTD. Nhưng một quy trình chuẩn cho việc thực hiện biện pháp bảo đảm này lại chưa được pháp luật thiết lập. Ngoài các quy định chung về trình tự, thủ tục thực hiện giao dịch bảo đảm và
đăng ký giao dịch bảo đảm tại BLDS năm 2005 và các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Bộ luật này về giao dịch bảo đảm thì bảo đảm tiền vay bằng GTCG chưa hề có quy trình áp dụng riêng. Mặc dù, GTCG là loại tài sản đặc thù, có tính thanh khoản cao, luôn biến động về giá trị và quá trình từ khi GTCG được hình thành đến khi GTCG được đem làm tài sản bảo đảm, sau đó bị xử lý để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ có sự tham gia của rất nhiều chủ thể, phải trải qua rất nhiều bước khác nhau, nhưng lại không có cơ sở pháp lý rõ ràng để thực hiện.
Hoạt động của TCTD chịu sự quản lý trực tiếp của NHNN, nên hầu như mọi hoạt động nghiệp vụ của TCTD đều được Ngân hàng Nhà nước có văn bản hướng dẫn cụ thể. Ví dụ, hoạt động cho vay có hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước tại Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN và các văn bản sửa đổi, bổ sung; hoạt động nhận tiền gửi tiết kiệm có hướng dẫn của NHNN về nhận tiền gửi tiết kiệm … Nhưng việc TCTD cho vay trên cơ sở cầm cố GTCG thì NHNN lại không có văn bản hướng dẫn cụ thể. Phải chăng do NHNN luôn cho rằng các khoản vay được đảm bảo bằng GTCG là khoản vay không có rủi ro nên không cần hướng dẫn (Tại Quyết định số 13/2010/QĐ ngày 10 tháng 5 năm 2010 của NHNN quy định hệ số rủi ro khi TCTD cho vay có cầm cố GTCG bằng không).
Vì không có quy định, hướng dẫn riêng về trình tự, thủ tục nhận tài sản bảo đảm là GTCG, nên trên thực tế mỗi TCTD thực hiện theo trình tự, thủ tục riêng phù hợp với tình hình hoạt động kinh doanh của TCTD đó. Hầu như TCTD nào cũng tự ban hành văn bản nội bộ hướng dẫn quy trình thực hiện cho vay trên cơ sở có bảo đảm bằng GTCG và quy trình nhận tài sản bảo đảm là GTCG, nhưng chẳng có TCTD nào quy định giống nhau. Điều này đã dẫn đến khó khăn cho bên vay và bên bảo đảm khi họ không biết thủ tục nào là cần thiết, thủ tục nào là không và họ luôn phải "chạy theo" các TCTD.
Tình trạng "loạn" quy trình cho vay có bảo đảm bằng GTCG chỉ chấm dứt khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy định, hướng
dẫn về cách thức nhận tài sản bảo đảm là GTCG. Dẫu biết rằng pháp luật không nên can thiệp quá sâu vào quyền tự chủ hoạt động của các TCTD, việc nhận tài sản bảo đảm bằng GTCG theo quy trình nào là quyền của TCTD tự quy định. Nhưng pháp luật cũng phải đưa ra được cơ sở pháp lý mang tính nguyên tắc định hướng cho hoạt động này đi đúng hướng, đặc biệt là có quy định tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về mặt pháp lý về các nội dung liên quan trong quy trình nhận GTCG làm tài sản bảo đảm.
Cuối cùng, cần bổ sung, hoàn thiện các quy định về giải quyết tranh chấp về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam. Có thể kể đến như: nhận diện chính xác và đầy đủ các tranh chấp về bảo đảm tiền vay bằng GTCG và phân loại chúng. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, trình tự giải quyết tranh chấp kéo dài không phù hợp với tính chất và đặc điểm của tranh chấp về bảo đảm tiền vay bằng GTCG và các tranh chấp khác có liên quan đến GTCG được dùng làm tài sản bảo đảm. Việc giải quyết tranh chấp không khẩn trương sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng lưu thông, khả năng xử lý GTCG để thu hồi nợ vay.
Vì vậy, pháp luật bên cạnh việc quy định rõ ràng các vấn đề pháp lý liên quan đến quy trình nhận GTCG làm tài sản bảo đảm, thì còn phải có những quy định về chế tài, cơ chế giải quyết phù hợp để giải quyết các tranh chấp xảy ra trên thực tế. Hơn nữa, tính hiệu quả của hệ thống pháp luật chủ yếu phụ thuộc vào sự phù hợp, tương thích giữa hệ thống pháp luật đó với tình trạng kinh tế xã hội hiện tại cũng như dự báo được những khả năng có thể xảy ra trong tương lai.
Do vậy, pháp luật cần phải xây dựng được các chế tài xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm để loại trừ được hành vi có thể gây thiệt hại hay xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia trong quan hệ bảo đảm tiền vay bằng GTCG. Bên cạnh đó, pháp luật cần xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến bảo đảm tiền vay bằng GTCG một cách nhanh chóng, theo trình tự rút gọn đơn giản mà không thực hiện theo trình tự, thủ tục phức tạp như mở phiên tòa, xét xử theo nhiều cấp. Quy định về trình tự rút gọn giải quyết tranh
chấp về GTCG đáp ứng được đòi hỏi khẩn trương về thời gian giải quyết tranh chấp trong kinh doanh cũng như trong giao dịch dân sự trong bối cảnh toàn cầu hóa.
3.3.2. Xây dựng cơ chế đồng bộ nhằm hỗ trợ, hướng dẫn, quản lý giám sát và bảo đảm thực hiện trên thực tế bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam
Giao dịch bảo đảm tiền vay bằng GTCG không chỉ đơn thuần chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự nói chung, pháp luật dân sự quy định về bảo đảm giao dịch bảo đảm nói riêng mà còn chịu sự điều chỉnh của rất nhiều văn bản luật chuyên ngành khác liên quan đến tổ chức, hoạt động của TCTD, đến phát hành GTCG và liên quan đến giao dịch của GTCG trên thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, các giao dịch bảo đảm tiền vay bằng GTCG cũng không nằm ngoài sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật về tố tụng dân sự, trọng tài hay tố tụng hình sự khi có tranh chấp xảy ra hoặc khi giao dịch có dấu hiệu phạm tội. Ngoài việc được nhiều ngành luật điều chỉnh, thì bảo đảm tiền vay bằng GTCG cũng liên quan đến nhiều chủ thể, từ tổ chức phát hành GTCG, đến các công ty chứng khoán, công ty lưu ký GTCG, các bên trong quan hệ mua bán GTCG, các bên trong quan hệ giao dịch bảo đảm bằng GTCG.
Chính vì vậy, giao dịch bảo đảm bằng GTCG tại các TCTD chỉ thực sự diễn ra thuận lợi, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể tham gia giao dịch khi cả hệ thống pháp luật điều chỉnh trực tiếp và gián tiếp đến giao dịch này được thiết lập theo một thể thống nhất, đồng bộ, tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm hỗ trợ, hướng dẫn, quản lý giám sát và bảo đảm thực hiện trên thực tế giao dịch bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại các TCTD.
Các giải pháp đề xuất cụ thể cho vấn đề này là:
- Pháp luật nên quy định ràng buộc về cơ chế, trách nhiệm phối hợp thực hiện giữa các chủ thể có liên quan như tổ chức phát hành GTCG, công ty chứng khoán lưu ký GTCG với TCTD nhận GTCG làm tài sản bảo đảm trong việc xác nhận tính hợp lệ, hợp pháp, xác nhận quyền sở hữu GTCG bảo đảm; trong việc chuyển giao GTCG và các chứng thư chứng minh quyền sở hữu
GTCG làm tài sản bảo đảm; trong việc giám sát, quản lý tài sản bảo đảm là GTCG và trong việc xử lý tài sản bảo đảm là GTCG để thu hồi nợ vay khi bên vay không hoàn thành nghĩa vụ như đã cam kết với TCTD cho vay.
- Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước, các cơ quan chức năng như Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, NHNN, Hiệp hội các ngân hàng Việt Nam, … trong việc ban hành các văn bản liên ngành hướng dẫn lựa chọn loại GTCG có tính ổn định, tính thanh khoản cao để nhận làm tài sản bảo đảm, ban hành các quy trình phối hợp thực hiện trong việc nhận GTCG làm tài sản bảo đảm.
- Đưa ra các biện pháp và công cụ tài chính để đảm bảo tính ổn định của thị trường chứng khoán nhằm tránh trường hợp thị trường chứng khoán biến động thất thường theo xu hướng giảm, từ đó tránh tình trạng các TCTD nhận bảo đảm đứng trước thách thức phải "giải chấp" hàng loạt GTCG để thu hồi nợ.
- Phải có các biện pháp hỗ trợ để TCTD có lộ trình "giải chấp" hợp lý hoặc ngưng "giải chấp" các hợp đồng bảo đảm GTCG (như NHNN thực hiện tái cấp vốn cho các TCTD) khi thị trường chứng khoán bất thường nhưng vẫn đảm bảo TCTD không gặp khó khăn trong thanh khoản, không rơi vào tầm kiểm soát đặc biệt của NHNN khi có nợ quá hạn vượt quá giới hạn cho phép.
- Ngoài ra, các biện pháp hỗ trợ các bên trong giao dịch bảo đảm lựa chọn và áp dụng biện pháp thích hợp để xử lý, "giải chấp" các hợp đồng bảo đảm GTCG nhằm thu được giá trị cao nhất từ việc xử lý GTCG từ đó bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bên bảo đảm, bên vay vốn, cũng như TCTD nhận bảo đảm.
Pháp luật điều chỉnh về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam cần phải được hoàn thiện và cần có sự "quan tâm" của các nhà làm luật vì đây là đòi hỏi khách quan và tất yếu trong tiến trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Việc hoàn thiện pháp luật phải xuất phát từ các căn cứ, yêu cầu cụ thể, phải được thực hiện theo phương hướng thống nhất và trên cơ sở các giải pháp hoàn thiện cụ thể, đồng bộ.
KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại các TCTD có thể nhận thấy vai trò rất lớn của biện pháp này trong hoạt động cho vay của TCTD cũng như trong đời sống xã hội. Đối với TCTD, biện pháp bảo đảm tiền vay bằng GTCG là một trong những công cụ hỗ trợ cho TCTD bảo toàn nguồn vốn cho vay, tránh xảy ra các khoản nợ xấu gây ảnh hưởng đến an toàn hoạt động của TCTD. Còn trong đời sống xã hội, nhờ có biện pháp này nên những người dân, doanh nghiệp hay tổ chức khác đang cần vốn để đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh hay để cải thiện, nâng cao đời sống có cơ hội rất lớn để vay vốn từ các TCTD.
Mặc dù vậy, pháp luật hiện hành quy định về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD vẫn còn rất nhiều hạn chế. Pháp luật quy định còn chung chung, chưa rõ ràng, nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ tạo ra nhiều cách hiểu và cách áp dụng pháp luật trên thực tế không thống nhất, nhiều khi không đúng. Chính vì vậy, biện pháp bảo đảm tiền vay bằng GTCG vẫn còn nhiều hạn chế khi áp dụng vào thực tiễn, dẫn đến việc biện pháp này đã không còn được coi là biện pháp hữu hiệu, an toàn để các TCTD áp dụng vào hoạt động cho vay của mình. Bảo đảm tiền vay bằng GTCG ngày càng mất đi vị trí ưu thế so với hàng loạt các biện pháp bảo đảm bằng các loại tài sản khác như biện pháp thế chấp bất động sản, thế chấp quyền tài sản… Do đó, hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG là một đòi hỏi tất yếu và cấp thiết. Tuy nhiên, việc hoàn thiện cả hệ thống pháp luật cồng kềnh không phải là việc dễ dàng, hay có thể hoàn thành trong ngày một, ngày hai. Việc hoàn thiện pháp luật đòi hỏi cả một quá trình dài, phải được thực hiện theo những bước, lộ trình cụ thể kèm theo việc hoàn thiện các thiết chế khác trong đời sống kinh tế - xã hội.