Bảo đảm quyền của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở Việt Nam - 2

MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài

Trong những năm cuối của thế kỷ XX, sự xuất hiện của đại dịch HIV/AIDS đã cướp đi mạng sống của hàng triệu con người trên thế giới. Đối với trẻ em, do đặc điểm non nớt về thể chất và tinh thần, nên đại dịch HIV/AIDS gây ra những hệ quả đặc biệt nghiêm trọng. Nó hủy hoại về sức khỏe, tinh thần, đe dọa về tính mạng và hạn chế sự thụ hưởng các quyền con người đối với trẻ em ở nhiều nước cũng như ở Việt Nam.

Theo thống kê của Cục bảo vệ và Chăm sóc trẻ em (Bộ LĐ- TB- XH) cả nước có khoảng 5.700 trẻ em dưới 13 tuổi nhiễm HIV, con số này trên thực tế còn cao hơn do nhiều nguyên nhân chưa thống kê chính xác được. Đó là những “tảng băng chìm” khi trẻ em bị lây nhiễm từ người mẹ mang thai và trẻ em sống trong hoàn cảnh có người thân bị nhiễm HIV và chết do AIDS. Bên cạnh đó, các yếu tố kinh tế - xã hội như nghèo đói, chênh lệch về thu nhập, sự kỳ thị phân biệt trong đối xử cùng với sự chuyển đổi của nền kinh tế thị trường đã làm cho các em trở nên dễ bị tổn thương hơn.

Phù hợp với Luật Nhân quyền quốc tế, Hiến pháp và luật pháp Việt Nam quy định mọi trẻ em không phân biệt dân tộc, giới tính, ngôn ngữ, hoàn cảnh kinh tế, tình trạng bệnh tật... đều có các quyền con người cơ bản. Như vậy, trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS đều được hưởng quyền bình đẳng như mọi trẻ em khác, đó là: quyền sống, quyền được học tập, quyền được chăm sóc sức khoẻ, quyền được vui chơi, hoà nhập cộng đồng, quyền được sống chung với cha mẹ….là quốc gia sớm phê chuẩn Công ước quốc tế về Quyền trẻ em (CRC),Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc thực hiện một cách đồng bộ để bảo đảm thực thi quyền của trẻ em hiệu quả nhất. Đối với trẻ em sống trong hoàn cảnh HIV/AIDS, Đảng và Nhà nước ta xác định rằng HIV/AIDS không chỉ là mối hiểm hoạ đối với sức khoẻ, tính mạng của con người mà còn là vấn đề liên quan đến tương lai phát triển nòi giống của dân tộc. Các quyền con người cơ bản của các em chỉ được tôn

trọng thực hiện khi có sự vào cuộc của Nhà nước và toàn xã hội trong việc chăm sóc và bảo vệ trẻ em, giúp các em đối phó với đại dịch HIV/AIDS, kéo dài sự sống.

Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta thể hiện trong văn kiện quan trọng sau:

- Chỉ thị số 54-CT/TW ngày 30/11/2005 về "Tăng cường lãnh đạo công tác phòng chống HIV/AIDS trong tình hình mới"

- Chỉ thị số 55-CT/TW ngày 28/6/2000 về “Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng ở cơ sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em".

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.

- Luật bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 5 đã thông qua ngày 15/6/2004.

- Luật phòng chống HIV/AIDS được Quốc Hội thông qua năm 29/6/2006

Bảo đảm quyền của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở Việt Nam - 2

- Chiến lược Quốc gia phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020

- Nghị định số 91/NĐ-CP ngày 17/10/2011 cũng bao gồm các biện pháp xử phạt sự kỳ thị và phân biệt đối xử với trẻ em sống chung hoặc bị ảnh hưởng bởi HIV, chẳng hạn như cản trở việc tiếp cận quyền giáo dục...

- Chương trình mục tiêu quốc gia, phòng chống HIV/AIDS giai đoạn 2012 - 2015.

- Chiến lược quốc gia về phòng chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

Bên cạnh một khuôn khổ pháp lý khá toàn diện Việt Nam còn thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ nhằm bảo đảm có hiệu quả quyền của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS như: Chương trình mục tiêu quốc gia, các Chương trình hành động vì trẻ em, các chính sách phúc lợi và an sinh xã hội...

Tuy nhiên, dưới góc độ pháp lý việc bảo vệ quyền của nhóm trẻ em sống trong hoàn cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam còn nhiều bất cập, khó khăn, chẳng hạn thiếu những văn bản pháp lý riêng dành cho nhóm trẻ em này, chưa thành lập được một hệ thống cơ quan bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt từ trung ương xuống địa phương và quan trọng hơn là nhận thức và sự vận dụng luật pháp, chính sách của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác chăm sóc và bảo vệ trẻ em còn nhiều hạn chế...

Từ những lý do trên tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài: “Bảo đảm quyền của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở Việt Namđể làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Từ trước đến nay Việt Nam đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về quyền của người nhiễm HIV/AIDS, trong đó có trẻ em. Nhiều tài liệu, bài viết tiêu biểu đã được sử dụng làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu của sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh… tiêu biểu như:

Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm nghiên cứu quyền con người, Giáo trình lý luận về quyền con người, Hà Nội, 2002.

Viện Nghiên cứu quyền con người thuộc Học viện Chính trị- Hành chính- quốc gia Hồ Chí Minh, Quyền trẻ em, Hà Nội, 2006.

Viện Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Tài liệu hướng dẫn giải đáp về HIV/AIDS và quyền con người Hà Nội. 2008.

TS. Nguyễn Văn Sáu - TS. Cao Đức Thái (Đồng chủ biên), Chính sách quốc gia về phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008

Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người (PGS.TS Nguyễn Đăng Dung chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.

Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Hỏi - Đáp về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011

GS.TS Hoàng Kim Quế, Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, Hà Nội, 2010.

Ths Đỗ Thị Hồng Thơm, Luật quốc tế về quyền của những nhóm người dễ bị tổn thương, Hà Nội, 2010.

Những công trình nêu trên đã cung cấp những thông tin, kiến thức về HIV/AIDS và các quyền con người của trẻ em. Là những tài liệu tham khảo bổ ích

cho đề tài này. Tuy nhiên, từ góc độ pháp lý vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu cơ bản và có hệ thống về bảo đảm quyền của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở Việt Nam hiện nay. Luận văn này là nỗ lực bước đầu của tác giả nhằm khắc phục những thiếu hụt nêu trên, góp phần tích cực trong công tác bảo vệ quyền của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.

3. Mục đích phạm vi, nghiên cứu

* Mục đích:

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là tổng hợp, hệ thống các văn bản pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em. Trên cơ sở đánh giá quá trình bảo đảm quyền của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở Việt Nam thời gian qua, luận văn đã luận chứng những phương hướng và giải pháp hoàn thiện luật pháp, thể chế nhằm bảo đảm tốt hơn quyền của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở Việt Nam hiện nay.

* Phạm vi nghiên cứu của luận văn

Tập trung nghiên cứu, phân tích khuôn khổ pháp luật quốc tế và quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước Việt Nam trong việc bảo đảm quyền của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.

4. Phương pháp nghiên cứu

Cở sở lý luận dùng để nghiên cứu đề tài luận văn này là chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước Việt Nam thể hiện trong các bản Hiến pháp, các văn bản pháp lý quan trọng nhằm bảo đảm quyền của nhóm trẻ em trên

Trên cơ sở quan điểm chung của cộng đồng quốc tế, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về bảo đảm quyền của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, luận văn sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử, so sánh, đối chiếu để giải quyết những yêu cầu của luận văn.

5. Những nét mới của luận văn

- Hệ thống hoá những văn bản pháp luật có liên quan đến bảo vệ quyền của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở Việt Nam.

-Thông qua đánh giá quá trình thực thi luật pháp, luận văn đã luận chứng một

số giải pháp cơ bản để hoàn thiện pháp luật, cơ chế bảo vệ tốt hơn quyền của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở Việt Nam hiện nay.

6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn

Kết quả của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, tuyên truyền, đào tạo về quyền trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS; đồng thời cung cấp cơ sở pháp lý cho các nhà hoạch định luật pháp và chính sách về quyền nhóm trẻ em trên ở Việt Nam.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn kết cấu gồm 3 chương như sau:

Chương 1: Cơ sở pháp pháp lý bảo đảm quyền của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.

Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở Việt Nam thời gian qua.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm quyền của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở Việt Nam hiện nay.

Chương 1

CƠ SỞ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TRẺ EM SỐNG CHUNG VÀ BỊ ẢNH HƯỞNG BỞI HIV/AIDS


1.1. QUYỀN CON NGƯỜI CỦA TRẺ EM

1.1.1. Khái niệm quyền con người

Theo Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp quốc, quyền con người là: Những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người. Trong định nghĩa này, quyền con người không chỉ là những giá trị nhân văn trừu tượng về cuộc sống có nhân phẩm, mà còn định hình thành tiêu chuẩn pháp lý cơ bản, nhờ đó quyền con người có được một vị trí độc lập trong quan hệ với quyền lực của Nhà nước và việc bảo đảm nó gắn với tuân thủ luật pháp chứ không phải sự ưa thích của nhà cầm quyền.

Quyền con người có phạm vi rộng và bao trùm 5 lĩnh vực chủ yếu: Chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa. Các quyền trong mỗi lĩnh vực là khác nhau nhưng có quan hệ tương tác, phụ thuộc và có tầm quan trọng như nhau. Chúng tạo nên một chỉnh thể thống nhất đòi hỏi các nhà nước, chính phủ phải thực thi đồng thời, không được tùy tiện hay rút bỏ. Quyền được giáo dục có quan hệ chặt chẽ với các quyền được chăm sóc sức khỏe; khả năng, trình độ văn hóa của người mẹ luôn có mối liên kết rò ràng với tình trạng được nuôi dưỡng, chăm sóc những em bé do người mẹ đó sinh ra... Tuy nhiên, đặc trưng cốt lòi này chưa được phản ánh trong cách tiếp cận của nhiều Nhà nước, Chính phủ. Trong việc bảo đảm quyền của trẻ em sống chung và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS cần phải quan tâm đến đặc trưng cơ bản này.

1.1.2. Quyền của trẻ em trong hệ thống quyền con người

Lịch sử phát triển quyền trẻ em

Trong lịch sử phát triển xã hội ở nhiều quốc gia, trẻ em đã sớm được coi là một trong những nhóm xã hội dễ bị tổn thương nhất và được các Nhà nước, các

cộng đồng quan tâm bảo vệ. Từ thế kỷ XIV, ở Châu Âu đã xuất hiện những dự án công cộng dành cho trẻ em (bệnh viện Spedale Degli Innocenti ở Florent, Italia) và trong thời kỳ này ở Châu Á, Bộ luật Hồng Đức của Việt Nam cũng đã quy định trách nhiệm của dân chúng và các quan lại địa phương phải giúp đỡ trẻ em tàn tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, bảo vệ chăm sóc trẻ bị lạc, đồng thời quy định về trừng trị tội gian dâm với trẻ em gái, tội buôn bán phụ nữ, giảm án và hoãn thi hành án với phụ nữ có thai, đang nuôi con nhỏ. [25, tr.253]

Mặc dù vậy, trong thời kỳ trước đây, ở tất cả các xã hội, việc bảo vệ trẻ em về cơ bản xuất phát từ các góc độ tình thương, lòng nhân đạo và sự che chở chứ không phải dưới góc độ pháp lý từ nghĩa vụ bảo vệ quyền. Do vậy, việc bảo vệ trẻ em ở thời kỳ trước về cơ bản chưa mang tính phổ biến, thống nhất, quy chuẩn và ràng buộc về nghĩa vụ với mọi đối tượng trong xã hội.

Phải đến đầu thế kỷ XX, thuật ngữ pháp lý “Quyền trẻ em” (QTE) mới được đề cập sau một loạt các biến cố quốc tế lớn mà đặc biệt là cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918). [25, tr.253]

Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các đề xuất bảo vệ quyền trẻ em trên phạm vi quốc tế xuất phát từ thực trạng vi phạm QTE diễn ra phổ biến khắp mọi nơi trên thế giới. Trẻ em là nạn nhân của các cuộc xung đột, chiến tranh, các hoạt động tội phạm có tổ chức, sự phân biệt đối xử với trẻ em, nhất là trẻ em gái diễn ra rất phổ biến ở hầu hết các nước đang phát triển. Trước thực trạng trên, ở Châu Âu, phong trào bảo vệ trẻ em đã phát triển mạnh mẽ với việc xuất hiện nhiều tổ chức phi Chính phủ đứng ra vận động chính sách và tài chính nhằm bảo vệ trẻ em. Sự phát triển mạnh mẽ của các phong trào này đã thúc đẩy cộng đồng quốc tế thông qua những biện pháp tập thể trong việc bảo vệ trẻ em. Vào những năm 1920, Hội quốc liên đã thành lập một ủy ban đặc biệt để giải quyết những vấn đề liên quan đến bảo vệ trẻ em, nhờ hoạt động của ủy ban này mà Công ước quốc tế về trấn áp nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em đã được thông qua vào năm 1921. Năm 1924, tại kỳ họp thứ 4, Hội quốc liên đã thông qua Tuyên ngôn về quyền trẻ em (còn gọi là Tuyên ngôn Giơnevơ).

Sau chiến tranh thế giới thứ hai Tuyên ngôn Giơnevơ 1924 được Đại hội

đồng Liên Hợp Quốc quan tâm, sửa đổi và phải đến năm 1959, Tuyên ngôn về quyền trẻ em mới được thông qua. Tuyên ngôn 1959 đã sử dụng cách tiếp cận trên quyền và quan tâm nhiều hơn đến các nhu cầu cơ bản của trẻ em.

Tuy nhiên quyền con người của trẻ em được đề cập trong một số văn kiện nhân quyền còn hạn chế, thiếu tính hệ thống, đặc biệt là chưa ghi nhận quyền của các nhóm trẻ em khuyết tật, trẻ em bị HIV/AIDS, trẻ em tị nạn, trẻ em t huộc nhóm thiểu số...

Ý tưởng pháp điển hóa nội dung của Tuyên ngôn 1959 thành một văn kiện pháp lý xuất phát từ đề xuất của Ba Lan. Trên cơ sở đề xuất này, Ủy ban nhân quyền Liên hợp quốc (LHQ) đã thông qua Nghị quyết số 20 (ngày 08/3/1978) để kêu gọi các cơ quan chuyên môn của LHQ, các tổ chức quốc tế, khu vực, các tổ chức phi chính phủ cùng tham gia đóng góp ý kiến để soạn thảo một công ước về QTE. Đến năm 1979, Ủy ban nhân quyền đã quyết định thành lập Nhóm công tác mở, có trách nhiệm chính trong việc tiến hành mọi hoạt động liên quan đến quy trình soạn thảo Công ước. Sau 10 năm nỗ lực chuẩn bị, Công ước về quyền trẻ em (CRC) được Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 20/11/1989 có hiệu lực ngày (02/9/1990). Ngay sau đó, Công ước nhanh chóng nhận được sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế và trở thành công ước quốc tế về QCN có số lượng quốc gia thành viên lớn nhất (đến nay có 193 thành viên). Cùng với quá trình xây dựng Công ước, LHQ đã thông qua nhiều văn kiện quốc tế quan trọng nhằm bảo vệ QTE.

Trẻ em là tương lai của nhân loại, nên việc bảo vệ trẻ em thực chất là bảo vệ quyền con người ở giai đoạn sớm nhất [23]. Khi chúng ta bảo vệ QTE, nghĩa là chúng ta đã bảo vệ QCN ở giai đoạn quan trọng nhất của cuộc đời một con người. Như vậy, quyền trẻ em chính là quyền của một nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Với tư cách là chủ thể của quyền, trẻ em cũng cần được tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền như người lớn; bên cạnh đó trẻ em còn được bảo vệ bằng những biện pháp đặc thù.

Nguyên tắc và nội dung cơ bản của quyền trẻ em trong công ước CRC

CRC ra đời là một bước ngoặt đánh dấu sự thay đổi trong nhận thức của

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/07/2022