Nâng Cao Nhận Thức, Trình Độ Của Điều Tra Viên, Kiểm Sát Viên, Thẩm Phán Và Hội Thẩm

Về Tạm giam, khoản 2 Điều 88 quy định: “Đối với bị can bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rò ràng thì không tạm giam”. Để thể hiện tinh thần nhân đạo, nhân văn, vì con người của chế độ XHCN, khoản 2 cần bổ sung thêm trường hợp bị can bị cáo là người đang phải nuôi, chăm sóc người thân của mình là người tàn tật nặng, ốm nặng hoặc sắp chết (gia đình neo đơn, nếu thiếu sự chăm sóc của bị can bị cáo thì những người này không thể tự mình sinh sống được) thì có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác (chẳng hạn cấm đi khỏi nơi cư trú), trừ những trường hợp đã nêu tại điểm a) bị can bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; b) bị can bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử; c) bị can, bị cáo xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

Hoàn thiện các quy định về thủ tục điều tra, truy tố, xét xử

- Bổ sung một số quyền của bị can trong giai đoạn điều tra: Quyền được có mặt người bào chữa khi bị hỏi cung và trách nhiệm của Điều tra viên bảo đảm quyền đó của bị can. Người bào chữa được thuê hoặc chỉ định trong những trường hợp luật định để giúp đỡ bị can về pháp lý trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Để thực hiện tốt trách nhiệm của mình, người bào chữa phải nắm bắt được ý chí của thân chủ, thu thập chứng cứ, nhất là chứng cứ gỡ tội. Vì vậy, trong quá trình hỏi cung, bị can có quyền được sự có mặt người bào chữa. Trách nhiệm của Điều tra viên là phải bảo đảm sự có mặt của người bào chữa như: thông báo cho người bào chữa thời gian, địa điểm hỏi cung, giải thích cho bị can quyền được có mặt người bào chữa, có thể quy định trong một số trường hợp bị can có quyền từ chối khai báo khi vắng mặt người bào chữa… Việc hỏi cung vắng mặt người bào chữa chỉ trong trường hợp Cơ quan điều tra đã thông báo hợp lệ

- Sửa đổi khoản 2 điều 105 BLTTHS theo hướng khi người đã yêu cầu khởi tố vụ án rút yêu cầu vào bất kỳ thời điểm nào trước khi bản án có hiệu lực pháp luật thì vụ án phải được đình chỉ. Để đảm bảo hiệu quả của hoạt động TTHS, thực hiện

chính sách nhân đạo của Nhà nước, bảo vệ lợi ích của người bị hại cũng như người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, điều 105 BLTTHS quy định vụ án về một số tội phạm chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại. Như vậy, ngoài dấu hiệu nội dung là có dấu hiệu của tội phạm, yêu cầu của người bị hại là căn cứ hình thức của việc khởi tố vụ án hình sự. Trong những trường hợp quy định này, dấu hiệu của tội phạm và yêu cầu khởi tố của người bị hại là hai căn cứ cần và đủ để cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự; thiếu một trong hai căn cứ đó thì vụ án không được khởi tố. Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu một trong hai căn cứ đó mất đi thì vụ án phải được đình chỉ. Về nguyên tắc, để bảo vệ quyền và lợi ích của mình, người bị hại có thể rút yêu cầu khởi tố vào bất kỳ thời điểm nào trước khi bản án, quyết định của Tòa án trong vụ án đó có hiệu lực pháp luật; và vì vậy, vụ án phải được đình chỉ tương ứng thời điểm đó. Việc khoản 2 điều 105 BLTTHS quy định vụ án chỉ phải được đình chỉ trong trường hợp người bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm là trái với bản chất tố tụng cũng như mục đích chế định tố tụng quan trọng, nhân đạo này. Vì vậy, theo chúng tôi, khoản 2 điều 105 BLTTHS cần được quy định lại như sau: “Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, thì vụ án phải được đình chỉ”.

3.2.2. Nâng cao nhận thức, trình độ của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm

Như đã phân tích trên, bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo phụ thuộc rất nhiều vào sự hoàn thiện của các quy định pháp luật và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Tuy nhiên, dù pháp luật có quy định cụ thể đến đâu thì hiệu quả của nó phụ thuộc rất nhiều vào quan điểm, nhận thức của người áp dụng pháp luật trong từng trường hợp cụ thể. Đặc biệt, trong BLTTHS nhiều quy định được áp dụng hay không lại tùy thuộc vào đánh giá chủ quan của người có thẩm quyền.

Ví dụ: căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam theo điểm b khoản 1 điều 88, khoản 2 điều 228 BLTTHS phụ thuộc vào đánh giá chủ quan (tuy nhiên trên cơ sở các tình tiết khách quan) của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện

trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án về khả năng bỏ trốn, khả năng tiếp tục phạm tội của bị can, bị cáo. Việc áp dụng các quy định pháp luật mang tính cưỡng chế cũng phụ thuộc nhiều vào quan điểm, cách nhìn nhận của người có thẩm quyền áp dụng. Ví dụ: theo điểm a khoản 1 điều 88 BLTTHS thì người nào phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng đều có căn cứ để tạm giam; nhưng việc có áp dụng biện pháp tạm giam hay không trong từng trường hợp cụ thể lại phụ thuộc vào quan điểm (nghiêm khắc hay khoan hồng) của người có thẩm quyền. Trong hoạt động tố tụng, nhiều hành vi tố tụng (kỹ năng điều tra, kỹ năng kiểm sát, điều khiển phiên tòa, văn hóa xét xử…) lại chưa được BLTTHS quy định; các hành vi tố tụng đó được thực hiện tốt hay không, bảo đảm tôn trọng QCN hay không phụ thuộc vào khả năng, kinh nghiệm của từng người tiến hành tố tụng.

Vì vậy, có thể nói tăng cường nhận thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ văn hóa ứng xử cho Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng, Điều tra viên Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án là giải pháp quan trọng đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đáp ứng yêu cầu tôn trọng và bảo đảm QCN nói chung, quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng. Cụ thể:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.

- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là kỹ năng tố tụng cho đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm các Tòa án. Những người tiến hành tố tụng phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ về các quy định của pháp luật liên quan đến bảo đảm QCN;

- Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, chính sách pháp luật, nhất là chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội, quan điểm bảo đảm QCN trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cho cán bộ cơ quan tiến hành tố tụng các cấp;

Bảo đảm quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - 14

- Rà soát lại đội ngũ cán bộ tư pháp để xác định đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh. Nâng cao tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức và nghề nghiệp chuyên môn của các cán bộ tư pháp

- Sắp xếp lại việc đào tạo cử nhân luật, cán bộ có chức danh tư pháp phải có trình độ Đại học luật và được đào tạo về kỹ năng nghề nghiệp tư pháp theo chức danh.

- Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế lựa chọn, bầu cử, bồi dưỡng quản lý Hội thẩm nhân dân nhằm đề cao trách nhiệm và vai trò của Hội thẩm nhân dân trong xét xử.

- Cần nhanh chóng bổ sung đủ số lượng điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán đáp ứng đòi hỏi yêu cầu thực tế của công tác giải quyết các vụ án hình sự trong giai đoạn hiện nay. Sự quá tải của công việc được giao chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng hời hợt, qua loa, đại khái, thiếu trách nhiệm khi giải quyết công việc, ảnh hưởng đến chất lượng công việc. Do vậy, trong thời gian tới cần đảm bảo đủ số lượng, nâng cao chất lượng cán bộ tư pháp để có thể đủ sức đảm đương những công việc khó khăn và phức tạp. Theo báo cáo của Cục Chính trị Tổng Cục cảnh sát nhân dân, ở những quận, huyện thuộc thành phố lớn, một điều tra viên phải thụ lý trung bình 10 vụ/tháng, có nơi 20 – 30 vụ/tháng. Bình quân mỗi điều tra viên không có đầy 3 ngày để giải quyết một vụ.

- Tăng cường hoạt động kiểm sát, giám sát hoạt động TTHS, hoạt động giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới nhằm phát hiện các vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, xâm phạm đến QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để có biện pháp khắc phục về tố tụng như kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm để hủy các bản án, quyết định tố tụng có vi phạm. Trong hoạt động kiểm sát điều tra, xét xử, hoạt động giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới, hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo… cần chú trọng hơn nữa tới việc kiểm tra văn hóa xét xử, kỹ năng tố tụng để có thông báo rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tố tụng, tăng cường bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

3.2.3. Tăng cường hướng dẫn áp dụng bộ luật tố tụng hình sự, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân

Đảm bảo QCN nói chung và đảm bảo QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS có mối quan hệ mật thiết với trình độ nhận thức và ý thức pháp luật của con người. Thực trạng về HĐTT đã cho thấy, một trong các nguyên nhân quan trọng dẫn tới việc vi phạm QCN trong lĩnh vực này là do trình độ nhận thức pháp

luật của một bộ phận nhân dân nói chung và của cán bộ công chức các cơ quan tư pháp nói riêng chưa được đầy đủ, ý thức pháp luật chưa cao.

Trước mắt các cơ quan có thẩm quyền cần tập trung hướng dẫn một số vấn đề sau đây:

- Hướng dẫn về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn không giam giữ như bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm nhằm giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng nên tăng cường áp dụng các biện pháp này. Hiện nay trong thực tiễn có quan điểm sai lầm cho rằng đã là bị can, bị cáo trong một vụ án thì phải áp dụng biện pháp ngăn chặn; quan niệm như vậy có đúng không cũng cần phải thống nhất. Cần hướng dẫn áp dụng thống nhất điều 93 BLTTHS về mức tiền phải đặt, thẩm quyền và thủ tục sung quỹ Nhà nước số tiền đặt để các cơ quan tiến hành tố tụng không gặp vướng mắc khi áp dụng biện pháp ngăn chặn này v.v…;

- TAND tối cao và VKSND tối cao cần có hướng dẫn thống nhất về trình tự phiên tòa hình sự. Theo quy định của điều 197 BLTTHS thì chủ tọa chịu trách nhiệm điều khiển phiên tòa. Thế nhưng trong thực tiễn, nhiều trường hợp Kiểm sát viên không tuân theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa, thực hiện việc xét hỏi, phát biểu không xin phép chủ tọa; thậm chí có khi điều khiển phiên tòa thay cho chủ tọa như nhắc nhở, chấn chỉnh người tham dự phiên tòa, duy trì trật tự phiên tòa v.v…;

- Các cơ quan tiến hành tố tụng cần hướng dẫn cụ thể, thống nhất về một số kỹ năng, thủ tục tố tụng nhằm bảo đảm tốt hơn QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Cụ thể là:

+ Trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa; sự tham gia của người bào chữa vào quá trình tố tụng, nhất là trong giai đoạn điều tra;

+ Hình thức, thủ tục cũng như kỹ năng tiến hành phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm; tăng cường hơn nữa quyền tranh tụng dân chủ của người tham gia tố tụng, nhất là của bị cáo để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;

+ Nghiên cứu và hướng dẫn về khả năng có mặt của người bị kết án, người bào chữa của người bị kết án tại các phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm để họ phát biểu, trình bày quan điểm của mình trước khi Hội đồng xét xử thảo luận, quyết

định. Bởi vì, mặc dù khoản 2 điều 282 BLTTHS quy định Tòa án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm có thể triệu tập người bị kết án, người bào chữa đến phiên tòa, thế nhưng trên thực tế do chưa có hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền, cho nên hầu như chưa có phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm nào mà người bị kết án, người bào chữa được triệu tập đến phiên tòa. Điều này, trong nhiều trường hợp sẽ ảnh hưởng đến tính đúng đắn, khách quan của quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm.

Thực tế cho thấy, những người nhận thức pháp luật thấp thường dễ bị vi phạm pháp luật trong xử sự thiếu khả năng bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia vào lĩnh vực hoạt động tư pháp.

Đối với người tiến hành tố tụng, việc nhận thức pháp luật chưa đầy đủ, ý thức pháp luật chưa cao là hệ quả của việc thiếu kịp thời, đầy đủ, khách quan khi thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được phân công làm cho hoạt động này kém hiệu lực, hiệu quả. Bên cạnh đó, do nhận thức pháp luật chưa đầy đủ, ý thức pháp luật chưa cao nên việc nhận thức về vấn đề đảm bảo QCN trong HĐTT của một bộ phận cán bộ công chức bị lệch lạc, thái độ ứng xử không đúng mực, vi phạm đến QCN của người tham gia tố tụng. Cho nên để đảm bảo QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS, những người tiến hành tố và người tham gia tham gia tố tụng bên cạnh việc nhận thức đầy đủ, đúng pháp luật, còn phải có ý thức trách nhiệm trong việc thực thi pháp luật nói chung và pháp luật trong lĩnh vực TTHS nói riêng để hiểu và làm đúng pháp luật. Để nâng cao nhận thức pháp luật và ý thức pháp luật trong nhân dân nói chung và cán bộ công chức của các cơ quan tư pháp nói riêng, Đảng ta xác định: “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với các hình thức phong phú, sinh động, đặc biệt là thông qua các phiên tòa lưu động và bằng những phán quyết công minh để tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và công dân” [2, tr.8].

Muốn vậy, cùng với việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật, giáo dục pháp luật theo các kênh truyền thống hiện nay. Trong lĩnh vực TTHS cần có hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đặc trưng như: Tăng cường công tác tập huấn, hội thảo chuyên ngành về công tác tư pháp, tăng cường công tác tổng kết kinh nghiệm,

trong việc kiểm tra, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật trong HĐTT… Đồng thời phải tăng cường công tác xét xử án lưu động và phát huy sự tham gia đông đảo của công dân, tổ chức vào lĩnh vực này để tuyên truyền, phổ biến và đặc biệt là giáo dục pháp luật trong lĩnh vực này một cách có hiệu quả nhất.

3.2.4. Tăng cường xử lý vi phạm, khắc phục kịp thời các hậu quả của vi phạm quyền con người do hoạt động tố tụng hình sự gây ra

Bản chất của HĐTT là là bảo vệ QCN, đó là việc bảo vệ các quyền cơ bản của công dân được quy định trong HĐTT thông qua trình tự tố tụng giải quyết các vụ án hình sự.

Trong HĐTT yêu cầu đặt ra là, một mặt là phải đảm bảo việc xét xử các quyền và nghĩa vụ pháp lý bị tranh chấp được khách quan, toàn diện, đầy đủ, đúng pháp luật mà thường được gọi là hợp tình, hợp lý. Mặt khác phải đảm bảo trong trình tự tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng phải tôn trọng pháp luật, thực hiện đầy đủ, đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật để tránh oan sai, vi phạm QCN trong hoạt động tố tụng. Có như vậy, việc đảm bảo QCN trong HĐTT mới được đầy đủ ý nghĩa.

Xuất phát từ HĐTT là lĩnh vực hoạt động đa dạng, khó khăn, phức tạp vì đó là hoạt động chứng minh về sự thật khách quan của tất cả các sự việc đã xảy ra từ trước. Mà mọi bước của trình tự hoạt động này đều liên quan đến việc giải quyết các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng và có nguy cơ vi phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Vì thế, mặc dù đã cố gắng đến mức cao nhất trong việc đảm bảo các quyền cơ bản của công dân trong HĐTP, nhưng do nhiều yếu tố khách quan, chủ quan chi phối, nên tình trạng vi phạm pháp luật trong HĐTT vẫn còn tồn tại, đã gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích hợp pháp của con người, ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả của HĐTT. Thực trạng này đang là sự nhức nhối trong trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và trong nhân dân. Nhất là khi các thiệt hại này chậm được khắc phục.

Chính vì vậy, để đảm bảo QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS, việc kịp thời khắc phục hậu quả các thiệt hại xảy ra trong lĩnh vực này đang

trở thành yêu cầu mang tính thiết. Vì thế, Nghị quyết 08-NQ/ TW ngày 02/ 01/ 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rò: "Khẩn trương ban hành và tổ chức thực hiện nghiêm túc các văn bản pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với những trường hợp bị oan, sai trong hoạt động tố tụng; nghiên cứu quỹ bồi thường thiệt hại" [2, tr.5].

Trên cơ sở đó, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009, Nghị định số 16/2010/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư liên tịch số 05/2012/TTLT- VKSNDTC-TANDTCBCA-BTP-BQP-BTC-BNN và PTNT (giữa Viện KSND tối

cao, TAND tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) ra đời làm căn cứ để bồi thường thiệt hại cho người oan sai trong hoạt động tố tụng đó là một bước tiến rất lớn về mặt lập pháp so với Nghị quyết 388/NQ-UBTVQH.

Cần xử lý nghiêm minh những cán bộ có hành vi sai trái vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp để có thể làm trong sạch đội ngũ, lấy lại niềm tin của nhân dân vào công lý. Qua thực tiễn giải quyết những vụ án hình sự thời gian qua cho thấy sai phạm của các cán bộ tư pháp thể hiện rất rò nét. Bên cạnh nguyên nhân do trình độ non kém còn là những biểu hiện tiêu cực của hành vi móc nối, tham nhũng, tiếp tay cho kẻ phạm tội. Công tác điều tra ban đầu sai lệch, mớm cung, ép cung buộc bị cáo nhận tội. Khi truy tố xét xử cả VKS và TA đều chủ quan, không làm rò cả 2 mặt buộc tội và gỡ tội dẫn đến sai lầm nghiêm trọng. Tuỳ thuộc vào mức độ sai phạm mà có thể xử lý kỷ luật hay truy cứu TNHS cán bộ sai phạm.

Vấn đề oan sai không phải bây giờ mới diễn ra và không phải chỉ có ở Việt Nam, mà nó xuất hiện đối với bất cứ nền tư pháp nào. Không phải cứ xác định được oan sai là giải quyết được ngay các vấn đề đặt ra. Thực tiễn những năm qua cho thấy, do thiếu trách nhiệm của người tiến hành tố tụng mà xảy ra nhiều trường hợp người không có tội bị xét xử oan, gây hậu quả về vật chất, tinh thần rất nghiêm trọng cho công dân. Ví dụ như vụ án Nguyễn Thanh Chấn, việc xác định bồi thường những thiệt hại, mất mát do bị tù oan suốt 10 năm sẽ được tính như thế nào sau khi ông chính thức đưa ra đề nghị số tiền lên tới gần 10 tỷ đồng? Sự oan khuất của ông

Xem tất cả 143 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí