Giải Pháp Tăng Cường Bảo Đảm Quyền Con Người Của Người Bị Hạn Chế Quyền Tự Do Trong Tố Tụng Hình Sự Việt Nam

Bản chất Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân,vì dân, do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Xét trên phương diện này, vai trò của Nhà nước trong đảm bảo QCN được thể hiện ở hai khía cạnh:

- Nhà nước là tổ chức công quyền, quản lý xã hội bằng pháp luật, nên Nhà nước có thẩm quyền ban hành pháp luật, quy định những nội dung cụ thể về QCN, quyền công dân và bắt buộc các công dân phải thực hiện. Thực hiện đầy đủ các quy định của Nhà nước là nghĩa vụ của mọi công dân.

- Nhà nước là một tổ chức công quyền phải phục vụ xã hội, Nhà nước phải thừa nhận những giá trị của QCN.

Xét ở cả hai khía cạnh trên, Nhà nước đều phải là công cụ thực hiện, bảo vệ QCN. Nhà nước không được tuỳ tiện quy định về QCN mà phải thừa nhận những giá trị xã hội khách quan của QCN trong điều kiện lịch sử cụ thể. Trong mối quan hệ về QCN, công dân phải chiếm ưu thế so với Nhà nước, Nhà nước phải phục vụ công dân. Pháp luật của Nhà nước Việt Nam là hệ thống các quy tắc xử sự do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành và đảm bảo thực hiện, là nhân tố điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội. Nhưng nội dung của pháp luật đó phải phản ánh các quy luật khách quan của xã hội. Nhà làm luật không được nghĩ ra luật một cách duy ý chí mà phải phát hiện ra luật từ thực tiễn cuộc sống. Với quan điểm nhất quán như vậy, pháp luật Việt Nam phải có nội dung tôn trọng QCN vì QCN là một giá trị xã hội khách quan.

Bốn là, tăng cường bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự doo trong tố tụng hình sự phải gắn liền với việc ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời và nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các loại tội phạm có tổ chức; bảo vệ trật tự, kỷ cương; bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân.

Tăng cường các đảm bảo QCN trong TTHS là góp phần thực hiện có hiệu lực, hiệu quả nhất các lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong lĩnh vực này. Trong TTHS, đồng nghĩa với việc đảm bảo QCN là việc thực

hiện đầy đủ, đúng và trách nhiệm cao các quy định của pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Vì vậy, yêu cầu đặt ra cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là phải tuyệt đối tuân thủ pháp luật trong hoạt động của mình.

Đảm bảo QCN trong TTHS không phải là làm tăng thêm các quyền, lợi ích cho người tham gia tố tụng hay bớt đi các nghĩa vụ mà họ phải thực hiện mà là đảm bảo đúng, đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý đã được pháp luật quy định cho người tham gia tố tụng. Cho nên, làm tăng thêm hay bớt đi các quyền, nghĩa vụ pháp lý của người tham gia tố tụng là đồng nghĩa với việc không đảm bảo QCN trong lĩnh vực này. Trên cơ sở đó, đảm bảo QCN trong TTHS là hệ quả của việc đảm bảo các quyền và nghĩa vụ pháp lý của người tham gia tố tụng, ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật nói chung và tội phạm nói riêng.

Như vậy, trong điều kiện hiện nay, tăng cường các đảm bảo QCN trong TTHS gắn liền với việc góp phần ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật, tội phạm, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Năm là, tăng cường bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự doo trong tố tụng hình sự phải gắn liền với việc xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện đại, góp phần xây dựng bảo vệ Đảng và Nhà nước.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.

Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước của nước ta hiện nay là để thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Trong đó, cải cách hệ thống tư pháp hiện nay ở nước ta là một lĩnh vực quan trọng.

Để đảm bảo QCN trong HĐTT, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tố tụng là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Bởi vì, chỉ trên cơ sở các cơ quan tố tụng hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, QCN trong HĐTT mới thật sự được

Bảo đảm quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - 13

đảm bảo. Để hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, các cơ quan tố tụng phải được kiện toàn lại tổ chức làm cho bộ máy cơ quan tinh gọn, thông suốt, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ phải được bồi dưỡng tăng cường về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, được đào tạo, bồi dưỡng về phẩm chất chính trị, được rèn luyện về phẩm chất đạo đức. Đồng thời phải tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, công cụ, phương tiện làm việc đáp ứng với yêu cầu của HĐTT.

Tóm lại, đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tố tụng là một nội dung quan trọng của việc đảm bảo QCN trong HĐTT. Vì vậy, tăng cường các đảm bảo QCN trong HĐTT hiện nay phải được gắn liền với việc đảm bảo các cơ quan tố tụng trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại nhằm góp phần thực hiện có hiệu lực, hiệu quả nhất chức năng, nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.

3.2. Giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện những quy định của pháp luật tố tụng hình sự có liên quan đến việc bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do

Qua thực tiễn hoạt động tố tụng cho thấy rằng, pháp luật trong lĩnh vực này đang còn bộc lộ những hạn chế nhất định, chủ yếu là: pháp luật chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ và còn nhiều sơ hở. Công tác xây dựng, giải thích, hướng dẫn và tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó có pháp luật về lĩnh vực tư pháp còn nhiều bất cập và hạn chế. Vì vậy, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cải cách hệ thống tư pháp vì mục tiêu đảm bảo QCN, quyền công dân theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật của lĩnh vực này đang trở thành yêu cầu cấp thiết. Trước đòi hỏi này, Đảng ta đã xác định rò: "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp, bảo đảm mọi vi phạm pháp luật đều phải xử lý, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật" [3, tr.32].

Về nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự:

- Bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong TTHS. Tranh tụng là một trong những nội dung quan trọng, mang tính đột phá trong cải cách tư pháp hiện nay ở nước ta đã được xác định trong Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Phải nói rằng, tranh tụng có ý nghĩa rất quan trọng trong TTHS. Trước tiên, tranh tụng góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án. Bởi vì, tranh tụng thực chất là hình thức tố tụng mà trong đó các bên tham gia tố tụng thực hiện việc chứng minh các tình tiết của vụ án. Tranh tụng chính là việc cho phép các bên tham gia tố tụng thực hiện việc chứng minh, đặc biệt là chứng minh tại phiên tòa. Chỉ trên cơ sở nghe các bên thực hiện việc điều tra và trình bày kết quả chứng minh của mình, Tòa án mới có thể nhận thức một cách đầy đủ, chính xác, khách quan sự thật về vụ án. Có thể nói, pháp luật tố tụng nước ta, đặc biệt là pháp luật TTHS chưa thể hiện hết bản chất đó của tranh tụng. Không phải tất cả các bên đều có quyền thu thập chứng cứ trong giai đoạn điều tra như lấy lời khai của những người làm chứng, yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ, tham gia khám nghiệm hiện trường… để chuẩn bị cho tranh luận tại phiên tòa. Ví dụ, người bào chữa không có quyền thực hiện việc điều tra mà người bào chữa lại sử dụng chính hồ sơ buộc tội của Viện kiểm sát để bào chữa tại phiên tòa. Việc xét hỏi tại phiên tòa chủ yếu do những người tiến hành tố tụng, nhất là Tòa án thực hiện; những người tham gia tố tụng (trừ người bào chữa) chỉ được quyền yêu cầu Hội đồng xét xử xét hỏi chứ không có quyền xét hỏi… Những hạn chế, bất cập đó của pháp luật tố tụng hiện hành vô hình dung đã tạo nên nhiều phiên tòa mang tính hình thức, một số vụ án đã có “án bỏ túi” mà không căn cứ vào sự thật khách quan được xác định tại phiên tòa, làm cho quyết định của Tòa án thiếu toàn diện, chính xác, khách quan. Để đảm bảo cho các bên tham gia tố tụng thực sự bình đẳng với nhau, các bên phải có địa vị pháp lý bình đẳng: bình đẳng về các quyền tố tụng và bình đẳng về các nghĩa vụ tố tụng. Để hoạt động xét xử của Tòa án được chính xác, toàn diện, khách quan, phải chăng tố tụng nước ta phải được thực

hiện theo hướng bảo đảm cho các bị can, bị cáo, các đương sự có người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi để họ có điều kiện tranh tụng bình đẳng trong tố tụng nói chung và tại phiên tòa nói riêng.

- Hoàn thiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 11). Đây là nguyên tắc TTHS rất quan trọng. Nó phải thể hiện được hai nội dung cơ bản và bao quát được quan điểm bảo đảm QCN trong tố tụng, nhất là QCN của bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng có quyền, lợi ích liên quan khác. Theo đó, điều 11 BLTTHS có thể được hoàn thiện như sau: “Điều 11. Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng khác. 1. Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa hoặc được cử người bào chữa trong các trường hợp pháp luật quy định; người bị tạm giữ, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền tự mình hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. 2. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa, cho người bị tạm giữ, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của Bộ luật này”.

- Hoàn thiện nguyên tắc “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 9). Thực chất, về tên gọi đây phải là nguyên tắc suy đoán không có tội. Nguyên tắc này được quy định trong các hệ thống pháp luật khác nhau: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được pháp luật xác định là người không có tội cho đến khi có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Đây là cơ sở, là tư tưởng xuyên suốt để quy định địa vị tố tụng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong cả quá trình tố tụng và thực hiện các quy định đó trong thực tiễn tố tụng.

- Hoàn thiện nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. Xác định sự thật khách quan của vụ án là điều kiện quan trọng quyết định cho việc giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án hình sự, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của người tham gia tố tụng nói chung, của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo

nói riêng. Theo quy định của điều 10 BLTTHS, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án có hai nội dung quan trọng là: 1/ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rò những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định không có tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; 2/ Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không có nghĩa vụ phải chứng minh là mình không có tội. Từ góc độ bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, quy định của điều luật còn những hạn chế, chưa thể hiện hết các yêu cầu cải cách tư pháp, tăng cường tranh tụng trong TTHS hiện nay ở nước ta. Điều luật quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm chung thuộc Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; coi Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án có trách nhiệm như nhau trong chứng minh tội phạm mà chưa phân biệt được trách nhiệm chứng minh của mỗi cơ quan trên cơ sở chức năng TTHS. Về bản chất, chức năng tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng có sự khác nhau: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có chức năng buộc tội; còn Tòa án có chức năng xét xử trên cơ sở buộc tội của Viện kiểm sát và gỡ tội của bị cáo, người bào chữa. Vì vậy, khó có thể quy định trách nhiệm của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án như nhau trong chứng minh tội phạm. Do đó, cần hoàn thiện điều 10 BLTTHS theo hướng phân biệt rò ràng hơn chức năng tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát với Tòa án.

Quy định về cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng

Bộ luật TTHS 2003 đã hoàn thiện một bước đáng kể các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng nói chung, của Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án Tòa án nói riêng. Đồng thời Bộ luật còn có sự phân biệt ở một mức độ nhất định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm chung với nhiệm vụ, quyền hạn trong tiến hành tố tụng đối với từng vụ án hình sự cụ thể của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án. Tuy

nhiên, theo chúng tôi, từ góc độ phân định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng, Bộ luật TTHS 2003 còn có một số bất cập, hạn chế, vướng mắc. Việc hoàn thiện nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng trong Bộ luật TTHS có ý nghĩa rất quan trọng về lý luận cũng như thực tiễn, đảm bảo cho các quy định của Bộ luật TTHS có tính khả thi cao, nâng cao hiệu quả hoạt động TTHS, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân nói chung, người tham gia tố tụng nói riêng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Việc hoàn thiện đó phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau đây:

- Phân định rò thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động TTHS; tăng quyền hạn, trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán.

- Đảm bảo quyền hạn phải đi đôi với trách nhiệm trong hoạt động tố tụng của người tiến hành tố tụng. Chỉ khi quyền hạn đi liền với trách nhiệm thì người tiến hành tố tụng mới thận trọng hơn trong thực hiện nhiệm vụ tố tụng của mình góp phần xử lý vụ án đúng đắn, khách quan.

Hoàn thiện các quy định về biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam

Quy định chặt chẽ hơn nữa về một số vấn đề như đề cao trách nhiệm cá nhân của người ra lệnh bắt, người thi hành lệnh bắt để bắt đúng người phạm tội tránh oan sai, bên cạnh đó cũng cần tôn trọng và bảo đảm những quyền và lợi ích chính đáng của người bị bắt. Luật TTHS 2003 cần quy định rò hơn về các điều:

Khoản 2 Điều 58: Người bào chữa có quyền: a) có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác. Theo chúng tôi thì Luật quy định như vậy còn chung chung, chưa rò ràng. Vậy khi nào thì điều tra viên đồng ý, khi nào thì không? Điều này hoàn toàn phụ thuộc ý chí chủ quan của điều tra viên, do điều tra viên quyết định. Do vậy Luật cần quy định các trường hợp người bào chữa được quyền hỏi bị can, người bị tạm giữ, được quyền tham gia một số hoạt động điều tra cụ thể.

Khoản 1 Điều 84 Biên bản về việc bắt người quy định: Người thi hành lệnh

bắt trong mọi trường hợp đều phải lập biên bản. Biên bản phải ghi rò ngày giờ tháng năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh bắt, những đồ vật, tài liệu bị tạm giữ và những khiếu nại của người bị bắt. Biên bản phải được đọc cho người bị bắt và những người chứng kiến nghe. Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng ký tên vào biên bản, nếu ai có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì có quyền ghi vào biên bản và ký tên.Việc tạm giữ đồ vật, tài liệu của người bị bắt phải được tiến hành theo quy định của bộ luật này. Khoản 2 quy định: Khi giao và nhận người bị bắt, hai bên giao và nhận phải lập biên bản. Ngoài những điểm quy định tại khoản 1 Điều 84, biên bản giao nhận còn phải ghi rò việc bàn giao các vật chứng.

Điều 85 thông báo về việc bắt quy định: Người ra lệnh bắt, cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người bị bắt, chính quyền phường, thị trấn, hoặc cơ quan tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt, cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay. Để đảm bảo quy định pháp luật được rò ràng, thuận tiện cho việc áp dụng và bảo đảm được quyền của người bị bắt, Luật cần quy định rò hơn trường hợp nào bị coi là cản trở việc điều tra, trường hợp nào không cản trở điều tra để thông báo theo quy định pháp luật về việc bắt người đối với gia đình người bị bắt.

Khoản 2 Điều 87 quy định về thời hạn tạm giữ: “trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá ba ngày; trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần hai nhưng không quá ba ngày”; những quy định này còn chưa cụ thể, dễ làm cho chủ thể tiến hành tố tụng có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, tạo ra cho chủ thể áp dụng một phạm vi khá rộng. Vậy những trường hợp nào được coi là “cần thiết”, trường hợp nào là “đặc biệt” ? Điều này hoàn toàn do chủ thể tiến hành tố tụng nhận định và thực hiện. Do vậy để đảm bảo tính chặt chẽ, đảm bảo được nguyên tắc pháp chế, luật phải quy định cụ thể từng trường hợp; không nên dùng văn bản dưới luật để quy định hoặc hướng dẫn vì dễ tạo ra sự tùy tiện và áp dụng không thống nhất.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 28/06/2022