Nội Dung Bảo Vệ Quyền Con Người Thông Qua Các Biện Pháp Ngăn Chặn Hạn Chế Quyền Tự Do Theo Quy Định Của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Bảo Vệ Quyền Con

Khi vụ án bị đình chỉ thì mọi BPNC đã được áp dụng đều phải được hủy bỏ.

Khi thấy BPNC đã áp dụng không còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng BPNC khác thì các cơ quan THTT hủy bỏ hoặc thay thế bằng BPNC khác [30].

Hủy bỏ BPNC là quyết định của cơ quan THTT không tiếp tục áp dụng BPNC đang áp dụng đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và căn cứ để hủy bỏ BPNC là: vụ án bị đình chỉ hoặc khi BPNC đã áp dụng không còn cần thiết nữa và cũng không cần phải thay thế bằng một BPNC khác.

Thay thế BPNC là việc các cơ quan THTT (CQĐT,Viện kiểm sát, Tòa án) quyết định áp dụng một BPNC khác thay thế cho BPNC đang được áp dụng. Căn cứ để thay thế BPNC phải dựa vào yêu cầu giải quyết của vụ án cũng như thái độ chấp hành của bị can, bị cáo đối với BPNC đang áp dụng. Vì vậy BPNC được thay thế có thể là biện pháp ít nghiêm khắc hơn nhưng cũng có thể là biện pháp nghiêm khắc hơn tùy thuộc vào thái độ của người bị áp dụng.

Việc hủy bỏ hay thay thế BPNC tùy thuộc các giai đoạn tố tụng sẽ do các cơ quan THTT trong các giai đoạn đó quyết định. Đối với các BPNC do Viện kiểm sát phê chuẩn thì việc hủy bỏ hoặc thay thế sẽ do Viện kiểm sát quyết định.

1.3. Nội dung bảo vệ quyền con người thông qua các biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Bảo vệ quyền con người thông qua các BPNC hạn chế quyền tự do là

quá trình thực thi một cách nghiêm minh, triệt để các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo quyền con người thông qua việc áp dụng các BPNC hạn chế quyền tự do, bảo đảm chỉ áp dụng các BPNC này khi có đủ các điều kiện cần và đủ, tránh việc áp dụng khi chưa đủ điều kiện hoặc áp dụng quá mức cũng như việc không áp dụng trong những trường hợp cần phải áp dụng.

Tố tụng hình sự là hoạt động khởi tố, điều tra vụ án hình sự của cơ quan điều tra, hoạt động truy tố người phạm tội ra trước Tòa án của Viện kiểm sát, hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án và hoạt động thi hành bản án, quyết định bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án [35, tr. 786].

Trong BLTTHS Việt Nam, tại các nguyên tắc cơ bản cũng như các quy định trong quá trình giải quyết vụ án đều thể hiện tinh thần bảo vệ quyền con người với hai định hướng: xử lý nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật đối với tội phạm và đảm bảo không làm ảnh hưởng tới quyền con người khi tiến hành các hoạt động tố tụng [6, tr. 64].

Áp dụng các BPNC là hoạt động của các cơ quan và người THTT có thẩm quyền đối với người bị nghi đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS nhằm đảm bảo cho quá trình tố tụng được chính xác, khách quan, ngăn ngừa các đối tượng tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Hoạt động này luôn gắn liền chặt chẽ với quyền con người. Tuy nhiên, chỉ được áp dụng BPNC trong những trường hợp cần thiết nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án, ngăn ngừa đối tượng tiếp tục thực hiện tội phạm. Điều 79 BLTTHS năm 2003 đã quy định căn cứ của việc áp dụng các BPNC đó là: khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội cũng như để đảm bảo thi hành án. Khi áp dụng bất kỳ một BPNC nào được quy định trong BLTTHS thì phải đảm bảo có căn cứ theo quy định tại Điều 79 BLTTHS, đồng thời khi các căn cứ để áp dụng BPNC không còn hoặc việc áp dụng BPNC không còn cần thiết nữa thì phải kịp thời thay thế hoặc hủy bỏ. Việc lạm dụng áp dụng các BPNC, áp dụng không đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền, thời hạn là một trong những biểu hiện của việc vi phạm quyền con người trong hoạt động TTHS.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

Để bảo vệ quyền con người thông qua các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của BLTTHS thì cần phải hoàn thiện các quy định của BLTTHS

về các BPNC cũng như việc các cơ quan và người THTT khi áp dụng các BPNC trong quá trình giải quyết vụ án hình sự phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định đó - đây là yếu tố quan trọng quyết định đến hiệu quả của việc bảo vệ quyền con người thông qua các BPNC hạn chế quyền tự do.

Bảo vệ quyền con người thông qua các biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do theo quy định - 6

Nhiệm vụ của BLTTHS là: “góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân…” [30, Điều 1] và các BPNC cũng nhằm thực hiện nhiệm vụ đó. Vì vậy, vấn đề bảo vệ quyền con người thông qua các BPNC hạn chế quyền tự do phải được xem xét từ hai khía cạnh: Bảo vệ quyền con người, quyền công dân nói chung, và Bảo vệ quyền con người thông qua việc áp dụng các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của BLTTHS.

- Bảo vệ quyền con người, quyền công dân nói chung

Các quyền con người, quyền công dân đã được quy định cụ thể tại Chương 2 Hiến pháp năm 2013. Trong quá trình xây dựng và áp dụng các BPNC hạn chế quyền tự do, các cơ quan và người có thẩm quyền đều phải ghi nhận, tôn trọng và bảo vệ các quyền con người nêu trên.

Việc áp dụng các BPNC là nhằm bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích của xã hội và của công dân. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các BPNC cũng cần phải quan tâm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng các BPNC, bởi họ mới bị nghi ngờ đã thực hiện tội phạm, họ mới chỉ bị hạn chế quyền tự do đi lại, tự do cư trú, quyền bầu cử, ứng cử,… Những quyền con người khác của họ như quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,… vẫn phải được bảo đảm và tôn trọng.

- Bảo vệ quyền con người thông qua việc áp dụng các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của BLTTHS

Để bảo đảm và bảo vệ quyền con người của những người bị áp dụng các BPNC hạn chế quyền tự do thì trước hết cần phải bảo đảm việc áp dụng

các BPNC này đối với những đối tượng bị áp dụng phải có căn cứ, đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền, thời hạn, việc hủy bỏ và thay thế các BPNC theo quy định của BLTTHS năm 2003. Việc áp dụng các BPNC hạn chế quyền tự do có liên quan rất lớn đến quyền con người của những người bị áp dụng các biện pháp này đặc biệt là quyền tự do dân chủ và các quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Việc quy định và áp dụng các biện pháp này đúng thẩm quyền, đúng căn cứ, thủ tục và thời hạn… là những đảm bảo quan trọng cho việc bảo đảm và bảo vệ quyền con người của người bị áp dụng. Mặt khác, đối với những người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú có quyền được tôn trọng và bảo đảm các quyền mà pháp luật quy định trừ một số quyền mà BLTTHS hạn chế như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tự do đi lại, tự do cư trú, quyền ứng cử, bầu cử… nhằm đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ của TTHS. Mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình áp dụng các BPNC cần phải tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân của người bị áp dụng mà không bị pháp luật hạn chế cũng như các quyền trong tố tụng của họ.

1.4. Chủ thể, biện pháp bảo vệ quyền con người thông qua các biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự

1.4.1. Chủ thể bảo vệ quyền con người thông qua các biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự

Quyền con người trong TTHS được thể hiện ở hai khía cạnh: thứ nhất, việc trừng trị những người phạm tội gây ra những thiệt hại cho các quyền và lợi ích hợp pháp của con người của các cơ quan THTT đã góp phần bảo vệ quyền con người. Khi tội phạm xảy ra xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của con người thì các cơ quan THTT có thẩm quyền phải có trách nhiệm phát hiện, ngăn

chặn, xử lý, khắc phục những thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra… Đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khỏi sự xâm hại của hành vi phạm tội là một trong những chức năng của nhà nước và trách nhiệm quan trọng của các cơ quan THTT. Thứ hai, khi THTT giải quyết các vụ án, các cơ quan THTT có trách nhiệm tôn trọng và bảo đảm các quyền con người của người bị tình nghi phạm tội, bị can, bị cáo… [7, tr. 33]

Các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của pháp luật TTHS cũng phải đảm bảo được cả hai khía cạnh trên. Vì vậy, chủ thể bảo vệ quyền con người thông qua các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của BLTTHS bao gồm:

- Các cơ quan và người có thẩm quyền ban hành nội dung các quy định về TTHS nói chung và các BPNC hạn chế quyền tự do nói riêng trong TTHS: Để bảo vệ quyền con người nói chung và quyền con người thông qua các BPNC hạn chế quyền tự do nói riêng, thì vấn đề đầu tiên đòi hỏi đó là các quyền con người phải được ghi nhận cụ thể trong hệ thống pháp luật tố tụng hình sự và vấn đề này thuộc về trách nhiệm của các cơ quan và người có thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật nói chung và các văn bản pháp luật TTHS nói riêng, đó là: Quốc hội - cơ quan có thẩm quyền ban hành Bộ luật TTHS phải ghi nhận đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng trong việc bảo đảm cho những người bị áp dụng các BPNC hạn chế quyền tự do những điều kiện cần thiết để thực hiện các nghĩa vụ của họ một cách đầy đủ và chặt chẽ, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao - Tòa án nhân dân Tối cao - Bộ Công an: các cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản hướng dẫn trong toàn ngành để nhận thức và thực hiện thống nhất các quy định của BLTTHS trong đó có các quy định về BPNC hạn chế quyền tự do.

- Khi các quyền con người đã được ghi nhận cụ thể trong các văn bản

pháp luật thì vấn đề tiếp theo để bảo vệ được quyền con người nói chung và quyền con người thông qua các BPNC hạn chế quyền tự do nói riêng thì các quyền đó phải được bảo đảm và bảo vệ trên thực tiễn thi hành pháp luật. Các cơ quan và những người có thẩm quyền quyết định và áp dụng các BPNC phải đảm bảo việc áp dụng các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của BLTTHS đúng thẩm quyền, căn cứ, trình tự thủ tục và thời hạn, đồng thời bảo đảm các quyền con người của người bị áp dụng các BPNC này không bị pháp luật hạn chế phải được tôn trọng và bảo vệ. Đó là: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án là những cơ quan thực thi các quy định của BLTTHS về các BPNC trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, trong đó Viện kiểm sát “Với chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật trong TTHS, bằng hoạt động của mình Viện kiểm sát kịp thời phát hiện những vi phạm về quyền con người, khôi phục những quyền, lợi ích bị vi phạm, áp dụng biện pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện vi phạm” [7, tr. 48]. Mặt khác trong quá trình áp dụng các BPNC này nếu phát hiện thấy còn có những vấn đề bất cập, vướng mắc và ảnh hưởng đến các quyền con người nói chung thì cần phải có sự kiến nghị sửa đổi kịp thời đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật được thống nhất. Chỉ khi thực hiện được các vấn đề trên thì quyền con người mới được bảo vệ.

- Các đối tượng bị áp dụng các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của BLTTHS, người bào chữa và mọi công dân: để bảo vệ được quyền con người của mình thì bản thân các đối tượng trong quá trình bị áp dụng các BPNC cũng cần phải tự bảo vệ các quyền của mình hoặc thông qua người bào chữa bằng việc việc khiếu nại, tố cáo những hành vi và quyết định tố tụng của những người và cơ quan THTT không đúng quy định hay mọi công dân đều có quyền khiếu nại việc các cơ quan THTT áp dụng hay không áp dụng BPNC đối với một đối tượng đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi có căn cứ.

1.4.2. Các biện pháp bảo vệ quyền con người thông qua các biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự

Để bảo vệ quyền con người thông qua các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của BLTTHS, theo chúng tôi cần có những biện pháp sau:

- Các biện pháp liên quan đến hoạt động lập pháp:

Các quy định về BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của pháp luật TTHS phải được xây dựng đảm bảo các tiêu chí về quyền con người. Vì vậy, hoạt động lập pháp có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người. Để bảo vệ quyền con người nói chung và quyền con người thông qua các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của BLTTHS nói riêng, theo chúng tôi hoạt động lập pháp cần phải:

Đảm bảo việc quy định đầy đủ, cụ thể, minh bạch các quyền con người và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tôn trọng và bảo vệ các quyền con người đặc biệt là trong lĩnh vực TTHS - một trong những lĩnh vực mà quyền con người có nguy cơ bị xâm hại nhiều nhất. Trong TTHS, để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có điều kiện phát hiện và xử lý những hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm thì cần phải có một số quy định về các BPNC hạn chế quyền tự do của người bị áp dụng, tuy nhiên các biện pháp đó chỉ được phép áp dụng ở mức độ cần và đủ để đạt được mục đích chung. Mặt khác cần phải có quy định chặt chẽ về căn cứ, thủ tục, thẩm quyền áp dụng các BPNC này. Khi các căn cứ, điều kiện áp dụng càng chặt chẽ, rõ ràng, thủ tục càng cụ thể thì quyền con người sẽ ngày càng được tôn trọng và bảo vệ hơn. Đồng thời BLTTHS phải quán triệt đầy đủ các chủ trương, yêu cầu của Đảng về tăng cường sự giám sát trong hoạt động TTHS.

Đồng thời hoạt động lập pháp về vấn đề bảo vệ quyền con người cũng cần phải có sự phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế về quyền con người đặc biệt là các công ước như: Công ước về quyền dân sự,

chính trị; Công ước về quyền trẻ em; Công ước xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, các công ước về chống phân biệt chủng tộc… mà Việt Nam đã tham gia.

Mặt khác, cũng cần phải có quy định pháp luật về trách nhiệm cá nhân của những người có thẩm quyền áp dụng các BPNC hạn chế quyền tự do và những người thi hành các lệnh này trong trường hợp để xảy ra vi phạm các quy định của pháp luật như việc áp dụng các biện pháp này tùy tiện, để xảy ra trường hợp oan sai,… nhằm khắc phục phần nào những hậu quả của việc oan, sai đồng thời góp phần vào việc bảo vệ quyền con người.

- Các biện pháp liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật: Nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người trong TTHS thì cần phải nâng cao nhận thức cũng như tinh thần trách nhiệm của các cơ quan THTT và người THTT trong việc áp dụng các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của luật TTHS đối với từng trường hợp cụ thể, đảm bảo việc nhận thức một cách đúng đắn và áp dụng thống nhất, chỉ áp dụng khi có một trong các căn cứ theo quy định. Đây là vấn đề rất quan trọng bởi quyền con người của những người bị áp dụng các BPNC có được đảm bảo hay không phụ thuộc vào trách nhiệm và hoạt động của các cơ quan THTT và người THTT. Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc bắt người oan sai, tùy tiện, không đúng quy định là do trình độ năng lực những người THTT còn có hạn chế và ý thức pháp luật chưa được đề cao. Ngoài ra, cũng không loại trừ nguyên nhân tiêu cực trong hoạt động TTHS. Đồng thời những người THTT phải nhận thức được ý nghĩa của việc áp dụng các BPNC thì việc áp dụng các biện pháp này trên thực tế mới đảm bảo được đúng mục đích, ý nghĩa của các biện pháp này.

- Các hoạt động liên quan đến kiểm tra, giám sát hoạt động tố tụng hình sự nhằm bảo vệ quyền con người

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 21/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí