Tăng Cường Cơ Sở Vật Chất Kỹ Thuật Trong Tố Tụng Hình Sự Nhằm Bảo Đảm Quyền Con Người Của Người Bị Hạn Chế Quyền Tự Do

Chấn đã được khẳng định. Số tiền phải bồi thường lên đến hàng chục tỷ đồng ở một số vụ án khác đã có ở Việt Nam. Vụ xử oan sai ông Chấn, mức bồi thường cụ thể sẽ được đưa ra. Thế nhưng kể cả có sự phán quyết của cơ quan chức năng, thì việc quy trách nhiệm ra sao? Đến bao giờ khoản bồi thường đến được tay ông Chấn cũng là điều đáng bàn. Và tổ chức, cá nhân nào sẽ chịu trách nhiệm đối với khoản tiền hàng tỷ đồng kia? Đối với những hệ lụy mà gia đình, và rộng hơn là xã hội phải chịu? Việc làm thấu tình, đạt lý ấy còn góp phần ngăn chặn những hành vi lạm dụng quyền lực, khắc phục tình trạng năng lực yếu kém của một bộ phận không nhỏ cán bộ, viên chức trong hệ thống các cơ quan tư pháp hiện nay, giúp hạn chế oan sai trong TTHS như mục tiêu Chiến lược Cải cách tư pháp đang được Đảng, Nhà nước ta quyết tâm thực hiện.

Do đó, trong thời gian tới, cần có kế hoạch thống kê về thực trạng các trường hợp oan sai trong hoạt động để kịp thời khắc phục về quyền lợi vật chất và tinh thần cho những người có hoàn cảnh, điều kiện quá bức xúc. Trên cơ sở đó, từng bước tổ chức thực hiện việc khắc phục hậu quả oan sai một cách rộng khắp trong cả nước.

- Hoàn thiện chế độ kỷ luật đối với hành vi xâm phạm QCN trong TTHS. Những hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xâm phạm QCN chưa đến mức độ truy cứu trách nhiệm hình sự thì tùy tính chất, mức độ phải được xử lý kỷ luật một cách hợp lý.

- Tăng cường công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại tư pháp, nhất là khiếu nại giám đốc thẩm, tái thẩm. Do vậy cần kịp thời bổ sung, nâng chất, kiện toàn tổ chức, biên chế đội ngũ cán bộ làm các công tác trên.

- Đẩy mạnh chế độ truy cứu án oan, sai. Trong truy cứu án oan, sai thường tồn tại những trường hợp việc lớn hoá nhỏ, làm cho êm chuyện, thời gian kéo dài gây tâm lý mệt mỏi, chán nản. Truy cứu án sai đồng thời với việc truy cứu trách nhiệm nhân viên làm sai và cả những người lãnh đạo trực tiếp của họ.

- Nên thành lập Hội đồng thương lượng đền bù cho người bị oan với thành phần bao gồm đại diện các cơ quan tư pháp, có sự tham gia của đại diện Hội đồng nhân dân, Mặt trận tổ quốc, dưới sự giám sát của đại biểu Quốc hội, đặc biệt với sự

tham gia của người bị oan để tránh tình trạng cơ quan gây thiệt hại lại chính là cơ quan quyết định việc bồi thường.

- Về nguồn kinh phí thực hiện việc bồi thường nên sớm xây dựng Quỹ bồi thường thiệt hại về tư pháp tạo sự chủ động và kịp thời trong việc giải quyết việc bồi thường. Trong đó việc đóng góp, thu chi, hạch toán, kê khai, hoạt động của Quỹ phải rò ràng theo đúng chế độ tài chính của Nhà nước.

- Luật cũng phải quy định rò trách nhiệm của người tiến hành tố tụng đã gây ra oan sai trong việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả để việc hoàn trả thực sự có ý nghĩa trong thực tế. Hoàn trả là việc phải làm vì không thể lấy ngân sách Nhà nước để chi trả cho sai phạm của một ai đó. Khi luật đã rò ràng thì chắc chắn không một CQTHTT nào có thể làm ngơ, bỏ qua vấn đề này.

3.2.5. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.

Trong hoạt động nói chung, cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc có mối quan hệ mật thiết với hiệu lực, hiệu quả công việc được thực hiện bởi cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc đó. Khi cơ sở vật chất trang thiết bị làm việc đảm bảo về số lượng, chất lượng thì hiệu lực, hiệu quả hoạt động sẽ cao và ngược lại. Đối với lĩnh vực TTHS vấn đề củng cố và tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật để nâng cao hiệu lực hiệu quả hoạt động có một vị trí không kém phần quan trọng. Vì đây là hoạt động nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong hoạt động này, cơ sở vật chất kỹ thuật được hiểu là, trụ sở làm việc của các cơ quan tố tụng, công cụ phương tiện, trang thiết bị để những người tiến hành tố tụng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình... Chỉ trên cơ sở có đủ các điều kiện vật chất kỹ thuật, hoạt động tố tụng mới có chất lượng và hiệu quả. Thực tế hiện nay trụ sở và các trang thiết bị, phương tiện làm việc của các cơ quan tố tụng còn quá nhiều thiếu thốn và khó khăn. Nhiều trụ sở Viện kiểm sát, Tòa án, Đội thi hành án cấp huyện được xây từ lâu, nay đã xuống cấp không đảm bảo diện tích sử dụng, không đảm bảo tính uy nghiêm của cơ quan công quyền. Tòa án nhiều nơi không có micrô, loa đài để xử án, các cơ sở giam giữ còn thiếu phương tiện chuyên dụng như

xe chở bị cáo, camera... Nhiều trụ sở TAND địa phương được xây dựng đã lâu đến nay đã bộc lộ những bất hợp lý về thiết kế và quy mô xây dựng, không đáp ứng được với yêu cầu của công tác xét xử; có trụ sở đã xuống cấp nghiêm trọng, cần được trùng tu, cải tạo, nâng cấp hoặc xây dựng mới; một số trang thiết bị làm việc cần được thay thế, bổ sung. Bên cạnh đó, định mức kinh phí như hiện nay của ngành còn quá hạn hẹp. Tình trạng trên không chỉ của ngành Tòa án mà là tình trạng chung của tất cả các cơ quan tư pháp hiện nay.

Bảo đảm quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - 15

Chính vì vậy, cần phải đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cho các cơ quan tư pháp: Nhất là đối với trụ sở Viện kiểm sát, Tòa án cấp huyện còn chưa có; nâng cấp, xây mới các nhà tạm giữ hình sự. Có kế hoạch tổng thể nâng cấp, xây trụ sở mới các trại tạm giam, trước hết cần mở rộng, cải tạo những trại giam đã xuống cấp để đảm bảo an toàn cho công tác giam giữ phạm nhân, giải tỏa tình trạng quá tải hiện nay.

3.2.6. Tăng cường vai trò của người bào chữa nhằm bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự

Sự tham gia của người bào chữa trong tố tụng không chỉ giúp bị can, bị cáo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mà còn góp phần trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, giúp việc điều tra, truy tố và xét xử được nhanh chóng, chính xác, tránh làm oan người vô tội, để lọt tội phạm. Tuy nhiên vị trí, vai trò của luật sư chưa được nhìn nhận đúng và chưa thực sự bảo đảm theo yêu cầu của pháp luật. Nhằm tăng cường vai trò của người bào chữa để bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự, tác giả đưa ra một số kiến nghị sau:

Trước tiên cần phải mở rộng quyền hạn cho người bào chữa tạo điều kiện cho họ có thể bảo vệ những người bị tạm giữ, bị can, bị cáo theo quy định của pháp luật.

Đội ngũ người bào chữa đặc biệt là luật sư cần phải được tăng lên về cả số lượng và chất lượng. Chính bản thân người bào chữa cân phải nâng cao trách nhiệm thực sự , trình độ nghiệp vụ, kỹ năng bào chữa thành thạo , có tinh thần không chỉ bảo vê người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà còn tôn trọng pháp luật, bảo vệ công bằng và lẽ phải.

Bên cạnh đó, các cơ quan THTT phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để người bào chữa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của họ. Cần phải thấy rằng sự có mặt người bào chữa trong các vụ án hình sự là những nhân tố tích cực thúc đẩy việc giải quyết các vụ án đúng pháp luật, đảm bảo sự công bằng, dân chủ. Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người bào chữa cần phải thấy được vai trò và hiệu quả của việc tranh tụng tại phiên tòa. Phải thực sự tạo sự bình đẳng giữa những người tham gia tố tụng, mọi quan điểm đúng đắn đưa ra đều phải được xem xét một cách thỏa đáng. Hùng biện là một nghệ thuật điều này đòi hỏi người bào chữa phải thực sự tâm huyết, phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, hoàn thiện kỹ năng nghề nghiệp, từ đó mới nâng cao khả năng tranh tụng của người bào chữa.

3.2.7. Tăng cường công tác giám sát của cơ quan tiến hành tố tụng, các tổ chức, cá nhân trong bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự

Đảm bảo quyền con người nói chung là, quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự nói riêng là trách nhiệm của mọi cơ quan Nhà nước,tổ chức xã hội và cá nhân. Trong tố tụng hình sự, quyền con người luôn có nguy cơ bị xâm hại rất cao vì hoạt động của các cơ quan Nhà nước tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự trực tiếp ảnh hưởng tới các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân được pháp luật quy định. Có thể nói, đảm bảo quyền con người trong lĩnh vực này là hoạt động rất phức tạp nhạy cảm. Chính vì vậy, đảm bảo cơ chế giám sát, của các cơ quan THTT, các tổ chức, cá nhân là một yêu cầu thường xuyên,cấp bách nhằm hiện thực hoá quyền con người. Suy cho cùng, sự vận hành của cơ chế này nhằm hạn chế sự lạm dụng quyền lực của các cơ quan hành pháp, tư pháp trong thực thi quyền lực.

Để thực hiện tốt đảm bảo này, cần xác định rò các vấn đề cơ bản như cơ chế về chủ thể, phương thức thực hiện, các biện pháp đảm bảo cho hoạt động này có hiệu lực trong thực tiễn cuộc sống.

Hoạt động giám sát cũng chỉ được thực hiện trên thực tế khi xác định rò quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể có liên quan. Việc xác định thực hiện theo hướng

phân biệt rò thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan với cá nhân của cơ quan đó, của thủ trưởng với cán bộ thực hiện, trách nhiệm của chủ thể có quyền yêu cầu và chủ thể phải giải quyết các yêu cầu đó.

3.2.8. Tăng cường hợp tác quốc tế và trao đổi về kinh nghiệm lập pháp hình sự về bảo vệ quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do

Đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế trên mọi lĩnh vực, trong đó có hoạt động bảo vệ QCN là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, tiến hành “với các tổ chức INTERPOL, ASEANPOL... với cảnh sát các nước láng giềng và khu vực, với cảnh sát một số quốc gia có nhiều công dân Việt Nam sinh sống, lao động, học tập” [3, tr.6].

Thực hiện hoạt động này không những tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam nghiên cứu các giá trị nhân quyền quốc tế mà còn là điều kiện để Đảng, Nhà nước Việt Nam nhằm bác bỏ các luận điệu xuyên tạc về vấn đề thực hiện QCN ở Việt Nam của các thế lực thù địch.

Tham gia điều ước quốc tế về QCN, cụ thể hoá nội dung của điều ước quốc tế trong pháp luật quốc gia với nội dung phong phú hơn là một truyền thống của Việt Nam. Tới nay, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập hầu hết điều ước quốc tế về QCN do Liên Hợp Quốc ban hành, không kể đến những điều ước quốc tế do các tổ chức chuyên môn của Liên Hợp Quốc thông qua. Tuy nhiên, với sự nhận thức rò tầm quan trọng của việc hợp tác quốc tế nhằm đảm bảo QCN nói chung và QCN của người bị hạn chế quyền tự do nói riêng, chúng ta cần đẩy mạnh hoàn thiện pháp luật.

Hoàn thiện pháp luật phải dựa trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại và vì QCN. Nội dung hoàn thiện cần tập trung xác định rò lĩnh vực, phạm vi hợp tác quốc tế.

Lĩnh vực hợp tác phải đa dạng, thể hiện không chỉ ở các điều ước quốc tế trực tiếp bảo vệ QCN, phát triển QCN về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa mà còn trong các lĩnh vực đấu tranh chống tội phạm xâm phạm tới QCN. Lĩnh vực hợp tác quốc tế đấu tranh chống tội phạm xâm phạm QCN cần tập trung ở ba mảng bức xúc hiện nay là dẫn độ tội phạm, tương trợ tư pháp hình sự, chuyển giao phạm nhân.

Nội dung pháp luật cần đi vào chiều sâu, ký kết các điều ước quốc tế giải

quyết những vẫn đề bức xúc của QCN như: Vấn đề giảm án tử hình, hình phạt tù, chống tra tấn...

Bên cạnh đó, cần khẩn trương xây dựng luật chuyển hóa điều ước quốc tế vào nội luật, thống nhất cách thức chuyển hóa điều ước quốc tế đối với từng loại điều ước quốc tế, góp phần bảo vệ nhanh chóng, vững chắc QCN thông qua các quy định pháp luật.

Như vậy, hoàn thiện pháp luật Việt Nam về QCN nói chung và QCN của người bị hạn chế quyền tự do nói riêng cần đươc tiến hành đồng bộ từ việc rà soát hệ thống pháp luật, nâng cao chất lượng của hệ thống pháp luật, hoàn thiện tổ chức của bộ máy nhà nước và các tổ chức bổ trợ tư pháp, hoàn thiện pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho xã hội hoá việc bảo đảm QCN cũng như bảo đảm sự phù hợp giữa luật quốc gia với luật quốc tế. Việc quán triệt các quan điểm chỉ đạo hoạt động này, đặc biệt là quan điểm của Đảng, Nhà nước về QCN, về cải cách tư pháp có vai trò quyết định đưa pháp luật về QCN vào cuộc sống.

Kết luận Chương 3


Quyền con người trong tố tụng hình sự chỉ có thể được đảm bảo khi được đặt trong yêu cầu, đòi hỏi chung của xã hội và trên cơ sở nền tảng của việc đảm bảo QCN nói chung. Đó là phải có một sự ổn định về chế độ chính trị, xã hội, một chế độ dân chủ rộng rãi, một nền kinh tế ổn định và không ngừng phát triển. Đồng thời, nó phải được đặt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Để bảo đảm QCN của những người bị hạn chế quyền tự do, BLTTHS cần được sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện, hệ thống. Những sửa đổi, bổ sung đó bao gồm: việc hoàn thiện các quy định về các nguyên tắc cơ bản của TTHS; hoàn thiện địa vị pháp lý của các chủ thể quan hệ TTHS; hoàn thiện các quy định về biện pháp ngăn chặn; hoàn thiện các quy định về khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, cũng như về thủ tục rút gọn; hoàn thiện các quy định về khiếu nại, tố cáo trong TTHS. Đồng thời với việc hoàn thiện các quy định của BLTTHS, cũng cần thực hiện các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng trong bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Trong số đó, các giải pháp quan trọng là: tăng cường hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật TTHS; nâng cao trình độ, năng lực, nhận thức của người tiến hành tố tụng; nâng cao năng lực, vị thế của đội ngũ luật sư; hoàn thiện chế độ trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng đối với việc vi phạm QCN trong TTHS nói chung, của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng; kiện toàn tổ chức, biên chế đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại tư pháp.

KẾT LUẬN


Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, vấn đề đảm bảo QCN nói chung và đảm bảo QCN trong TTHS luôn được các quốc gia coi trọng trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển đất nước. Trên cơ sở đó, nó đã trở thành tiêu chí để đánh giá về sự công bằng, dân chủ, bình đẳng của một chế độ xã hội.

Ở Việt nam, vấn đề đảm bảo QCN trong TTHS đã được Đảng và Nhà nước ta đặt ra từ những ngày đầu giành được nền độc lập dân tộc và luôn được xác định như một nhu cầu có tính nguyên tắc của nền tư pháp kiểu mới - nền tư pháp của dân, do dân và vì dân. Cùng với các giai đoạn cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vấn đề đảm bảo QCN nói chung và đảm bảo QCN trong TTHS đã và đang được từng bước củng cố về mặt lý luận và tôn trọng trong hoạt động thực tiễn.

Tuy vậy, trong công cuộc đổi mới đất nước, vấn đề bảo đảm QCN trong TTHS vẫn còn bộc lộ những bất cập cả về lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn. Những bất cập này đã xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Đó chính là sự bức xúc lớn mà Đảng, Nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm.

Hiện nay, để tăng cường các bảo đảm QCN trong TTHS đòi hỏi: phải kịp thời sửa đổi, bổ sung và không ngừng hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực đảm bảo QCN trong TTHS. Bộ máy các cơ quan tư pháp phải được kiện toàn, tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Đội ngũ cán bộ, công chức của các cơ quan tư pháp phải được tăng cường về số lượng, đảm bảo về chất lượng. Trên cơ sở đó phải tăng cường sự kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động của cơ quan tư pháp, của cán bộ công chức tư pháp. Đồng thời, phải tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, công cụ, phương tiện làm việc cho các cơ quan tư pháp, cán bộ công chức tư pháp phù hợp với điều kiện hiện nay…

Từ cơ sở lý luận và thực tiễn đặt ra của công cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn cách mạng hiện nay, bản luận văn về "Bảo đảm quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do trong luật TTHS Việt Nam " vì thế đã góp phần làm rò những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến bảo đảm QCN nói chung và bảo đảm QCN trong TTHS ở nước ta hiện nay.

Xem tất cả 143 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí