Nâng Cao Hiệu Quả Hoạt Động Của Các Cơ Quan, Tổ Chức Bổ Trợ Tư Pháp Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Áp Dụng Pháp Luật

vai trò kiểm sát hoạt động xét xử của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình xét xử của Tòa án nhân dân là hoạt động kiểm tra, giám sát trực tiếp, cụ thể của một cơ quan có chức năng đặc biệt được pháp luật giao quyền đảm bảo tính pháp chế và tính thống nhất của hoạt động áp dụng pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Kiểm sát viên giám sát hoạt động xét xử việc tuân theo pháp luật và việc xét xử của Tòa án. Từ hoạt động này, các vi phạm, sai sót trong việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất được phát hiện kịp thời. Một trong những biện pháp để nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án nhân dân chính là Tòa án phải tiến hành tự kiểm tra hoạt động của mình. Thủ tục giám đốc thẩm được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự là việc kiểm tra tính có căn cứ, tính hợp pháp của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Khi phát hiện các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng vì những nguyên nhân khác nhau trong đó có nguyên nhân do áp dụng sai pháp luật dẫn tới thiếu sót và sai lầm trong bản án, quyết định thì người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định đó.

Qua thực tiễn giám đốc thẩm cho thấy việc kháng nghị và việc xét xử theo trình tự giám đốc thẩm có khi chưa nhất quán về quan điểm, tiêu chí đánh giá sai lầm của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Điều này dẫn đến có những trường hợp có vụ án Tòa án nhân dân tối cao có văn bản trả lời đương sự là án xử đúng, nhưng sau đó lại kháng nghị hoặc có trường hợp có kháng nghị nhưng kháng nghị đã không được Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận. Thậm chí có trường hợp sau khi bản án, quyết định dân sự của Tòa án cấp dưới đã xét xử theo đúng hướng dẫn của Quyết định giám đốc thẩm nhưng sau đó lại bị kháng nghị ngược lại với kháng nghị. Điều này chứng tỏ chất lượng kháng nghị và chất lượng bản án, quyết định giám đốc thẩm hiện nay chưa cao.

Mặt khác, các diễn biến tranh chấp dân sự rất đa dạng, phức tạp và

căng thẳng nhất là đối với các tranh chấp về đất đai. Trong khi đó việc tổng kết, đúc rút kinh nghiệm và ban hành văn bản hướng dẫn chưa kịp thời, hoặc có hướng dẫn nhưng không phù hợp với thực tiễn. Đây là những nguyên nhân chính dẫn đến vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất bị xét xử nhiều lần, qua nhiều cấp mà vẫn không thuyết phục được đương sự, thậm chí có những vụ án đã được xét xử ở cấp cao nhất là Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao mà đương sự vẫn khiếu nại căng thẳng. Để thực hiện tốt công tác giám đốc thẩm, cần phải nâng cao trình độ chuyên môn cho các Thẩm phán, Thẩm tra viên, Kiểm sát viên và cán bộ Viện kiểm sát nhân dân làm công tác giám đốc thẩm. Quyết định giám đốc thẩm không những có ý nghĩa trong việc sửa chữa thiếu sót hoặc sai lầm của Tòa án cấp dưới mà còn có ý nghĩa làm chuẩn mực, mẫu cho Tòa án cấp dưới học tập, đồng thời có ý nghĩa giáo dục cao nên các Thẩm phán, Thẩm tra viên, Kiểm sát viên phải có trình độ chuyên môn cao, nhạy bén về tình hình chính trị. Có phẩm chất đạo đức, khách quan vô tư trong quá trình xét xử. Bởi họ chính là người tiếp xúc với đơn khiếu nại của đương sự, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tổng hợp, phân tích những tình tiết có trong hồ sơ vụ án để tham mưu đề xuất ý kiến về hướng xử lý khiếu nại đối với vụ án, soạn thảo các văn bản trả lời đơn khiếu nại hoặc văn bản kháng nghị. Có thể nói chất lượng của kháng nghị phụ thuộc nhiều vào đội ngũ cán bộ làm công tác này.

Thực tế cho thấy, không ít những các quyết định kháng nghị không được chấp nhận do cán bộ nghiên cứu báo cáo thiếu những tình tiết quan trọng của vụ án. Do đó, để làm tốt công tác giám đốc thẩm thì cần phải tăng cường chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác giám đốc thẩm về mọi mặt, nhất là về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, về trình độ lựa chọn các quy phạm pháp luật, kinh nghiệm công tác, có kỷ luật không chỉ là đòi hỏi mà còn là trọng tâm của công tác cán bộ của ngành Tòa án. Để có đội ngũ Thẩm phán,

Thẩm tra viên, Kiểm sát viên và cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân làm công tác giám đốc thẩm có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần phải có chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ cho Thẩm phán, Thẩm tra viên, Kiểm sát viên và cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân làm công tác giám đốc thẩm của mình, đồng thời chỉ đạo Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân cấp tỉnh lập kế hoạch bồi dưỡng kiến thức, cập nhật và phổ biến văn bản pháp luật mới, cung cấp tài liệu liên quan đến công việc một cách kịp thời. Tạo ra đội ngũ cán bộ làm công tác giám đốc thẩm có trình độ chuyên môn cao.

3.2.1.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp nhằm nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật

Nghị quyết số 48-NQTW, ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị (Khóa IX) về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020 đã nhấn mạnh: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bổ trợ tư pháp (Luật sư, Công chứng, Giám định, Cảnh sát tư pháp...) theo hướng đáp ứng ngày càng đầy đủ, thuận lợi các nhu cầu đa dạng về hỗ trợ pháp lý của nhân dân, doanh nghiệp, thực hiện xã hội hóa mạnh mẽ các hoạt động bổ trợ tư pháp, kết hợp quản lý nhà nước với tự quản của các tổ chức xã hội nghề nghiệp [1]. Thực tế công tác Tòa án cho thấy, hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất. Các cơ quan này đã cung cấp nhiều tài liệu, chứng cứ có giá trị chứng minh để làm sáng tỏ các tình tiết khách quan của vụ án. Khi các bên đương sự xuất trình các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình trong quá trình giải quyết vụ án không phải tài liệu nào cũng có giá trị pháp lý, đã có rất nhiều trường hợp tài liệu chỉ là bản photocopy chưa được công chứng, chứng thực và cũng chưa được Tòa án xác nhận đã đối chiếu với

bản chính. Vì vậy, để xác minh sự thật khách quan cần thiết phải trưng cầu giám định. Các chứng cứ, tài liệu của các cơ quan bổ trợ tư pháp đều được xem xét, thẩm tra, đánh giá tại phiên tòa khi Tòa án xét xử và có giá trị chứng minh nếu có đầy đủ giá trị pháp lý kết hợp với các chứng cứ khác có trong vụ án. Hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp kém hiệu quả, không chính xác, kịp thời dẫn đến sai lệch trong việc ban hành các phán quyết.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

3.2.1.4. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật

Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án phải gắn với nghĩa vụ phổ biến tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân. Pháp luật nước ta về đất đai không ổn định và quá nhiều văn bản hướng dẫn thi hành, vì vậy áp dụng pháp luật trong phiên tòa giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất không chỉ có tác dụng giáo dục ý thức tuân theo pháp luật của nhân dân mà còn giáo dục họ có ý thức tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Và đây, cũng là một phương pháp để truyền đạt kiến thức pháp luật đến nhân dân và thông qua đó người dân có điều kiện, kiến thức để giám sát hoạt động của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật. Để việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật có hiệu quả, Tòa án nhân dân cần tăng cường việc xét xử lưu động, đăng tải trên các thông tin đại chúng đối với các bản án, quyết định giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất để nhân dân biết và có ý thức chấp hành pháp luật, từ đó giảm thiểu các tranh chấp quyền sử dụng đất trong nhân dân.

Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân - 12

3.2.2. Nhóm giải pháp đối với ngành Tòa án nhân dân

3.2.2.1. Nâng cao phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức cho đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên - lực lượng chủ yếu thực hiện hoạt động áp dụng pháp luật trong việc xét xử các tranh chấp quyền sử dụng đất

Nghị quyết số 49-NQTƯ, ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị (Khóa IX) về "chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" đã chỉ rò: "Đội

ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí một số cán bộ sa sút về phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp". [2]

Số lượng, chất lượng đội ngũ Thẩm phán luôn là vấn đề mà Đảng, Nhà nước và xã hội quan tâm. Cùng với việc tăng cường về tổ chức, đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán của ngành Tòa án nhân dân luôn được bổ sung và lớn mạnh. So với thời điểm năm 2002, khi Tòa án nhân dân bắt đầu thực hiện việc quản lý các Tòa án địa phương về tổ chức theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, từ chỗ đội ngũ cán bộ còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ, đến nay số lượng cán bộ phần nào được đáp ứng. Hiện nay, biên chế toàn ngành Tòa án nhân dân là 12.520 người, trong đó, 4.959 người là Thẩm phán; 100% Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp đều có trình độ cử nhân luật trở lên; 100% Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, 75% Thẩm phán trung cấp và 35% Thẩm phán sơ cấp có trình độ cử nhân hoặc cao cấp lý luận chính trị [17].

Trình độ nhận thức chính trị, ý thức giác ngộ chính trị của Thẩm phán có vai trò quan trọng việc trong hình thành nhân cách của người Thẩm phán. Việc thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp người Thẩm phán có một thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản. Lập trường tư tưởng vững vàng, bản lĩnh chính trị sâu sắc là tiền đề vững chắc đảm bảo cho hoạt động áp dụng pháp luật của người Thẩm phán khi xét xử đúng với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trong quá trình giải quyết vụ án, bản lĩnh chính trị giúp cho người Thẩm phán cân nhắc, lựa chọn các văn bản pháp luật phù hợp, giúp người Thẩm phán can đảm gạt bỏ mọi cám dỗ về tinh thần, vật chất, đảm bảo: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” [5, Điều 130]. Ý thức chính trị ở trình độ cao của người Thẩm phán không chỉ là nhân tố để đảm bảo các quy phạm

pháp luật được áp dụng đúng, chính xác mà còn giúp người Thẩm phán có được bản lĩnh để xử lý tình huống một cách linh hoạt, chính xác. Do vậy, một trong những tiêu chuẩn của người Thẩm phán, Hội thẩm là "trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Đạo đức cách mạng là cơ sở quan trọng tạo nên nhân cách người Thẩm phán, xác lập chỗ đứng của người Thẩm phán trong xã hội. Đạo đức, phẩm chất của người Thẩm phán bao gồm đức tính trung thực, thẳng thắn, lòng nhân ái, sự dũng cảm, tính công bằng, tinh thần trách nhiệm, sự tự tin, dám nghĩ, dám làm.

Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất là việc xem xét tính có hợp pháp hay không hợp pháp của các chứng cứ mà đương sự xuất trình; tính có căn cứ hay không có căn cứ trong bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới. Các bản án, quyết định do áp dụng pháp luật đúng luôn gắn liền với việc bảo vệ quyền con người, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân, lợi ích của Nhà nước. Vì vậy, người Thẩm phán phải là người có đạo đức, biết bảo vệ lẽ phải, bình tĩnh, khôn khéo đấu tranh để xác định sự thật khách quan của vụ án, đấu tranh làm rò mọi sự lừa lọc dối trá, mọi thủ đoạn tinh vi để có những phán quyết hợp tình, hợp lý, đúng pháp luật. Bản án, quyết định phải có lý, có tình để mọi người "tâm phục, khẩu phục". Người Thẩm phán phải không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng "cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư" để có cái tâm trong sáng, bản lĩnh chính trị vững vàng khi xét xử, đánh giá các chứng cứ và các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện, chính xác. Trong thời gian qua, Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân các cấp không ngừng quán triệt sâu sắc ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức, quan điểm lập trường, cho đội ngũ Thẩm phán thông qua các kế hoạch thi đua, triển khai sâu rộng việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong toàn ngành góp phần vào việc hoàn thành nhiệm vụ.

Để công tác áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án đạt chất lượng, hiệu quả thì đội ngũ cán bộ, Thẩm phán, Thẩm tra viên ngành Tòa án phải có ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức tốt, nhất là đạo đức nghề nghiệp. Trong giai đoạn đang tiến hành công cuộc cải cách tư pháp hiện nay, để thực hiện tốt những nội dung của nghị quyết 08-NQTƯ của Bộ Chính trị, nhất là công tác áp dụng pháp luật trong xét xử phải tổ chức cho cán bộ, Thẩm phán học tập, nghiên cứu các chuyên đề về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt nghiêm túc và sâu rộng mọi đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, lấy kết quả học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những tiêu chí đánh giá, xếp loại cán bộ.

Thời gian tới, ngành Tòa án nhân dân cần thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức trong ngành, đặc biệt là việc triển khai, quán triệt nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và các nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách tư pháp nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị và Thẩm phán. Tăng cường công tác quản lý cán bộ, Thẩm phán của Tòa án các cấp.

3.2.2.2. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao hơn nữa nhận thức, năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho Thẩm phán

Chất lượng, hiệu quả công việc phụ thuộc rất lớn vào năng lực trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mỗi cán bộ, Thẩm phán ngành Tòa án nhân dân. Vì vậy, để chất lượng áp dụng pháp luật được tốt thì bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho họ là nhiệm vụ hàng đầu. Bởi vì, người Thẩm phán dù ban đầu có hiểu biết rộng, am hiểu thì vẫn cứ phải thường xuyên cập nhật các thông tin kinh tế, chính trị, xã hội và đặc biệt là trong lĩnh vực pháp luật. Có như vậy, họ mới đủ tầm để giải quyết công việc được giao. Trong điều

kiện giao lưu quốc tế mở rộng hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập chắc chắn sẽ phát sinh nhiều loại tranh chấp mới, công việc xét xử ngày càng tăng, tính chất vụ việc ngày càng phức tạp thì trách nhiệm của đội ngũ Thẩm phán ngày càng nặng nề. Vì vậy, nếu Thẩm phán không thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ để nâng cao năng lực trình độ, không chú trọng rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức thì sẽ không thể đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị được giao. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất luôn sinh động và đa dạng, phong phú, mỗi vụ án là một quan hệ pháp luật, một kiểu tranh chấp với các văn bản quy phạm pháp luật được chọn để áp dụng khác nhau. Ẩn chứa trong từng hồ sơ vụ án là thân phận của những con người đang chờ sự phán xét công minh, có tình, có lý của Thẩm phán.

Thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ Tòa án hiện nay còn thiếu, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ công chức còn yếu, thậm chí có những cán bộ sa sút về phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp nên đã có vi phạm kỷ luật hoặc vi phạm pháp luật hình sự, gây ảnh hưởng không tốt đến uy tín của ngành Tòa án nhân dân. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp như chế độ tiền lương và phụ cấp của Thẩm phán; các chế độ ưu đãi khi thi hành công vụ, chế độ bổ nhiệm thi tuyển và độ tuổi nghỉ hưu của Thẩm phán. Nhà nước cần nhìn nhận Thẩm phán là một nghề chứ không phải chỉ đơn thuần là một chức danh được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ và từ đó xây dựng chế độ bổ nhiệm không theo nhiệm kỳ như hiện đang làm. Mặt khác Nhà nước phải bảo đảm đời sống vật chất đầy đủ cho đội ngũ Thẩm phán để tăng cường khả năng tự vệ của họ trước cám dỗ vật chất.

Cùng với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước về các chế độ, chính sách

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 25/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí