Hệ Thống Toà Án Nhân Dân Và Vai Trò Của Toà Án Nhân Dân Trong Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai Ở Việt Nam Hiện Nay

GCNQSDĐ hoặc một trong các giấy tờ quy định tại khoản 1, 2, 5 Điều 50 Luật Đất đai 2003.[18]

Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết các tranh chấp lần đầu giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau.

Nếu không đồng ý thì đương sự được quyền gửi đơn đến Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Quyết định của UBND cấp tỉnh là quyết định cuối cùng.

Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết các tranh chấp lần đầu giữa tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài với nhau, giữa các tổ chức nước ngoài với nhau.

Nếu không đồng ý thì đương sự được quyền gửi đơn đến Bộ tài nguyên và môi trường. Quyết định của Bộ trưởng Bộ tài nguyên và môi trường là quyết định cuối cùng.

Tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính giữa các đơn vị hành chính với nhau trước hết do UBND cấp có tranh chấp cùng phối hợp giải quyết. Nếu không đạt được sự nhất trí hoặc kết quả của việc giải quyết làm thay đổi địa giới hành chính thì thẩm quyền giải quyết được quy định:

Tranh chấp liên quan đến địa giới hành chính của đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh do Chính phủ quyết định.

Tranh chấp liên quan đến địa giới hành chính của đơn vị hành chính cấp tỉnh do Quốc hội quyết định.

Ngoài ra việc giải quyết tranh chấp đất đai có thể giải quyết bằng hình thức trọng tài: pháp luật không cấm các đương sự thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài. Trọng tài là một tổ chức phi chính phủ, chỉ nhận giải quyết các vụ tranh chấp khi các bên có thoả thuận bằng văn bản về việc chọn trọng tài.

So với các phương thức giải quyết tranh chấp bằng toà án thì việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có một số ưu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

điểm như sau: tính chung thẩm và hiệu lực của quyết định trọng tài đối với việc giải quyết tranh chấp; trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp bí mật; trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp liên tục; trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, nhanh chóng, linh hoạt cho các bên. Ngoài ra, giải quyết tranh chấp bằng hình thức trọng tài còn tiết kiệm thời gian, giữ hòa khí cho các bên tham gia tranh chấp. Tuy là giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài - một tổ chức phi chính phủ, nhưng được hỗ trợ, bảo đảm về pháp lý của toà án.

1.3. HỆ THỐNG TOÀ ÁN NHÂN DÂN VÀ VAI TRÒ CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Toà án nhân dân qua thực tiễn của Toà án nhân dân tối cao - 4

1.3.1. Khái luận chung về hệ thống Toà án nhân dân ở Việt Nam hiện nay

Toà án nhân dân (TAND) là cơ quan xét xử của nước cộng hoà XHCN Việt Nam. Toà án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật.

Trong phạm vi chức năng của mình, toà án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Bằng hoạt động của mình, toà án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.

Hiện nay, hệ thống toà án ở nước ta bao gồm: Toà án nhân dân tối cao;

Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

Các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;

Các toà án quân sự (bao gồm toà án quân sự trung ương; các toà án quân sự quân khu và tương đương; các toà án quân sự khu vực);

Các toà án khác do luật định.

Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập toà án đặc biệt.

Là cơ quan trong hệ thống tư pháp, toà án có những đặc thù so với các cơ quan khác trong hệ thống này, đó là:

- Toà án, người đại diện của quyền lực tư pháp khác với cơ quan lập pháp và hành pháp ở chỗ không giải quyết các vấn đề ở tầm vĩ mô, không hoạch định chính sách kinh tế - xã hội mà có chức năng giải quyết các vấn đề rất cụ thể, từng tình huống, từng sự kiện cụ thể trong đời sống xã hội.

Toà án chủ yếu đóng vai trò là một bộ máy “quyền lực” bởi vì thông qua quyền lực tư pháp mà pháp luật tác động đến những quan hệ xã hội. Đây là phương tiện chủ yếu trong việc giải quyết các trường hợp xung đột giữa các quan hệ pháp luật

- Toà án phải có vị trí độc lập. Khi xét xử toà án có trách nhiệm áp dụng đúng đắn pháp luật nhà nước, không bị ràng buộc bởi bất cứ tác động nào, các cơ quan nhà nước khác không có quyền can thiệp. Nguyên tắc này không có nghĩa là toà án biệt lập với các cơ quan khác của nhà nước, bởi toà án vẫn phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan khác nhằm đảm bảo tốt nhất các quyền lợi hợp pháp của nhân dân.

- Những người làm công tác xét xử phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ pháp lý rất cao, đủ khả năng để giải quyết các vấn đề rất phức tạp như xác định tội phạm và người phạm tội và áp dụng hình phạt, phán quyết các tranh chấp, các sự kiện liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.

- Xét xử là hoạt động sáng tạo trong áp dụng pháp luật, đòi hỏi tư duy ở trình độ cao của người thẩm phán. Họ phải nhận thức một cách sâu sắc hệ thống đồ sộ các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, kể cả pháp luật của các quốc gia khác khi có liên quan và pháp luật quốc tế, đồng thời cần phải có năng lực và kinh nghiệm xét xử.

- Hoạt động xét xử luôn luôn bị giới hạn bởi những quy định khắt khe của pháp luật tố tụng về chứng cứ, về thời hạn, về độ chính xác của bản án.

- Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vị trí, vai trò của toà án lại càng được khẳng định. Vì toà án chính là cơ quan thực thi quyền tư pháp trong bộ máy nhà nước và việc thực thi quyền này lại ảnh hưởng trực tiếp tới mục tiêu và các giá trị của công cuộc xây dựng nhà nước.

Toà án là nơi thể hiện sâu sắc nhất bản chất của nhà nước và nền công lý của chế độ, đồng thời thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của cả hệ thống tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

1.3.2. Thẩm quyền của hệ thống Toà án nhân dân trong giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam hiện nay

Thẩm quyền theo loại vụ việc

Cơ sở của việc phân định thẩm quyền của toà án theo luật định

Theo quan điểm đối mới của Đảng, toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân, kinh doanh, thương mại, lao động thuộc quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Việc xác định thẩm quyền của toà án theo loại thủ tục tố tụng nào phải căn cứ vào tính chất của loại quan hệ pháp luật nội dung mà toà án cần giải quyết. Ở nước ta, các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động và hôn nhân gia đình về nguyên tắc, bản chất thuộc thẩm quyền dân sự của toà án theo thủ tục tố tụng dân sự.

Khoản 7, Điều 25 BLTTDS[27] đã quy định rò tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án theo thủ tục tố tụng dân sự.

Theo quy định tại khoản 1 điều 136 luật đất đai 2003[17], toà án các cấp có thẩm quyền giải quyết các loại tranh chấp sau đây:

Tranh chấp quyền sử dụng đất mà đất đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Đối với trường hợp tranh chấp quyền sử dụng đất mà đất đó đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo luật đất đai 1987; luật đất đai 1993; và luật đất đai 2003 thì thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án. Đối với các trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đất hoặc quyền sử dụng đất trước khi có luật đất đai 1987 sẽ thuộc trường hợp tại khoản 1 điều 50 luật đất đai 2003.[17]

Các tranh chấp quyền sử dụng đất mà đất đó có một trong các giấy tờ quy định tại khoản 1 điều 50 luật đất đai 2003.

Đối với các tranh chấp quyền sử dụng đất mà đất đó có một trong các giấy tờ được nêu dưới đây thì cũng thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án:

- Những giấy tờ về quyền sử dụng đất trước ngày 15/10/1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền nam việt nam và nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam.

- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, địa chính.

- Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất, giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất.

- Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất trước ngày 15/10/1993, nay được uỷ ban nhân dân xã phường thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15/10/1993.

- Giấy tờ về thanh lý hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật.

- Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của chế độ cũ cấp cho người sử dụng.

Các tranh chấp quyền sử dụng đất mà đất đó đã có các giấy tờ theo quy định tại khoản 2 điều 50 luật đất đai 2003

Khoản 2 Điều 50 luật đất đai 2003[17] quy định: "Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất."

Đối với các tranh chấp mà đất đó đã có các giấy tờ sau

Các tranh chấp quyền sử dụng đất mà đất đó có các giấy tờ khác bao gồm bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành bản án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành.

Khi giải quyết các tranh chấp mà một bên xuất trình một trong các giấy tờ được nêu ở khoản 1, khoản 2 điều 50 luật đất đai 2003 [17] thì cần phải xem xét bản chất của sự việc, do đó không phải ai đứng tên trong các giấy tờ đó thì đều công nhận quyền sử dụng đất cho họ theo các giấy tờ mà họ xuất trình, toà án phải xem xét trong từng trường hợp cụ thể, tuỳ theo tính chất của quan hệ pháp luật có tranh chấp để quyết định cho chính xác.

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai theo cấp toà án

Cơ sở của việc phân định thẩm quyền của toà án các cấp

Việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ việc về tranh chấp

đất đai giữa các cấp toà án bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc được chính xác, đúng pháp luật. Ở Việt Nam, hệ thống toà án được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ. Trong các toà án chỉ có Toà án nhân dân cấp huyện và Toà án nhân dân cấp tỉnh là có thẩm quyền xét xử sơ thẩm về tranh chấp đất đai. Do vậy, việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm về tranh chấp đất đai giữa toà án các cấp được thực hiện đối với Toà án nhân dân cấp huyện và Toà án nhân dân cấp tỉnh.

Cơ sở của việc phân định thẩm quyền giữa các cấp toà án là đường lối, chính sách của Đảng về hoạt động tư pháp, tính chất phức tạp của tranh chấp đất đai, hệ thống tổ chức toà án, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ toà án, điều kiện cơ sở vật chất, hiệu quả kinh tế của việc giải quyết tranh chấp về đất đai…

Thẩm quyền của Toà án nhân dân các cấp

Theo quy định của BLTTDS 2004 và Luật Đất đai 2003 thì những tranh chấp về đất đai mà có đầy đủ một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai[17] thì sẽ thuộc thẩm quyền của toà án. Về nguyên tắc, Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm hầu hết các vụ việc tranh chấp về đất đai, trừ những trường hợp thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp tỉnh. Đối với những tranh chấp đất đai có tính chất phức tạp đòi hỏi những điều kiện đặc biệt về chuyên môn, nghiệp vụ của toà án cũng như những điều kiện về phương diện kỹ thuật, về ủy thác tư pháp nước ngoài hoặc những vụ việc mà việc giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện không đảm bảo tính khách quan, vô tư thì sẽ thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp tỉnh.

Những tranh chấp đất đai mà không có một trong các loại giấy tờ hợp lệ theo quy định của pháp luật thì theo quy định của Luật đất đai 2003 cơ quan quản lý đất đai sẽ có trách nhiệm hòa giải. Thẩm quyền của toà án được

thể hiện ở việc giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại của bên bị hại. Trong trường hợp việc thoả thuận về mức bồi thường thiệt hại không thành thì đương sự có quyền khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại tại Toà án nhân dân (TAND) cấp huyện để được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Ngoài ra, nếu hết thời hạn theo khoản 2 Điều 135 Luật đất đai năm 2003 [17] (kể từ ngày UBND nhận đơn) mà UBND không tiến hành hoà giải hoặc không có điều kiện hoà giải (bên bị kiện không có thiện chí nên không có mặt hoặc không thể có mặt…) thì đương sự có quyền khởi kiện ra toà án. Thời gian từ ngày đương sự nộp đơn yêu cầu hoà giải tại UBND cho tới khi khởi kiện ra toà án không được tính vào thời hiệu khởi kiện.

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của toà án theo lãnh thổ

Cơ sở của việc phân định

Về nguyên tắc, việc phân định thẩm quyền của toà án theo lãnh thổ được tiến hành trên cơ sở đảm bảo việc giải quyết vụ việc dân sự của toà án được nhanh chóng, đúng đắn, bảo đảm việc bảo vệ của nhà nước, quyền lợi của đương sự, tránh được sự chồng chéo trong việc thực hiện thẩm quyền giữa các tòa cùng cấp. Ngoài ra, việc phân định thẩm quyền theo lãnh thổ còn bảo đảm quyền tự định đoạt cho đương sự.

Về thẩm quyền của toà án nơi có bất động sản

Theo điểm c khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 [27] thì toà án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản.

Quy định này được xây dựng dựa trên quan niệm là toà án nơi có bất động sản là toà án có điều kiện tốt nhất cho việc giải quyết tranh chấp. Bởi lẽ, tất cả các hồ sơ, giấy tờ về bất động sản do cơ quan quản lý bất động sản nắm giữ, cơ quan này nắm vững thực trạng, nguồn gốc của bất động sản. Do vậy, toà án nơi có bất động sản có điều kiện xác minh để giải quyết sát với thực tế:

Xem tất cả 105 trang.

Ngày đăng: 26/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí