Quy Định Về Thủ Tục Khởi Kiện Và Thụ Lý Vụ Án Dân Sự

Nghiên cứu, bổ sung quy định về thời hạn cung cấp chứng cứ của đương sự

Để bảo đảm thực hiện nguyên tắc tranh tụng, cần phải bảo đảm các điều kiện để thực hiện tranh tụng. Bởi "thực tế chứng minh rằng tranh tụng chỉ có hiệu quả nếu mỗi đương sự có được sự hiểu biết đầy đủ và toàn diện các yêu cầu và lý lẽ chống lại mình. Về logíc, người ta chỉ có thể đối đáp lại những gì mà mình biết" [39]. Do đó, cần quy định về thời hạn giao nộp chứng cứ của đương sự, tại phiên tòa sơ thẩm đương sự không có quyền cung cấp thêm chứng cứ mới.

Như chúng ta đều biết, theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, đương sự có quyền cung cấp chứng cứ trong suốt quá trình tố tụng. Quy định này được đưa ra trên cơ sở cho rằng, ở nước ta, trình độ dân trí nói chung chưa cao, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn hạn chế, không phải đương sự nào cũng đủ điều kiện kinh tế để nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Nếu quy định thời hạn cung cấp chứng cứ sẽ dẫn đến nhiều trường hợp đương sự không bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, chân lý không được bảo vệ. Tuy nhiên, việc chấp nhận chứng cứ mới tại phiên tòa sẽ chỉ có lợi cho một bên đương sự và bất lợi cho đương sự phía bên kia. Ngoài ra, thực tế đã chứng minh, quy định này là một trong các nguyên nhân dẫn đến kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Nhiều trường hợp những chứng cứ quan trọng thường được các đương sự giữ kín đến phiên tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm, thậm chí còn chờ một "thời điểm thích hợp" mới xuất trình. Nếu đương sự xuất trình chứng cứ mới tại phiên tòa sơ thẩm và việc xem xét, đánh giá chứng cứ đó cần phải có thời gian giám định hoặc định giá thì phiên tòa sơ thẩm sẽ phải tạm ngừng. Thực tế cho thấy, trong số các bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị hủy hoặc sửa có nhiều trường hợp do đương sự xuất trình chứng cứ mới.

Tham khảo kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, pháp luật tố tụng dân sự của nhiều nước ấn định thời hạn cung cấp chứng cứ của đương sự, tại phiên tòa sơ thẩm, đương sự không có quyền cung cấp chứng cứ mới, trừ trường hợp bất khả kháng. Việc giới hạn thời gian cung cấp chứng cứ của đương sự sẽ buộc đương sự phải có trách nhiệm hơn nữa trong việc thu thập, cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình đồng thời bảo đảm cho việc giải quyết vụ án nhanh gọn, hạn chế nguy cơ kéo dài quá trình tố tụng. Do đó, để đảm bảo thực hiện nguyên tắc tranh tụng, đảm bảo thời hạn giải quyết vụ án, giảm tỷ lệ án hủy, sửa cần giải quyết hài hòa lợi ích của đương sự trong mối quan hệ với lợi ích chung của toàn xã hội và nghĩa vụ của chính họ, việc giới hạn thời gian cung cấp chứng cứ của đương sự là cần thiết.

Tuy nhiên, việc giới hạn thời gian cung cấp chứng cứ của đương sự chỉ mang tính khả thi khi trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức pháp luật của người dân đã được nâng cao hơn. Sự thiếu hiểu biết pháp luật cũng như thiếu ý thức tôn trọng pháp luật của người dân hiện nay là một trong các nguyên nhân gây khó khăn cho việc mở rộng tranh tụng. Khi tham gia các giao dịch dân sự do không hiểu biết pháp luật nên các đương sự không xác lập các thủ tục pháp lý cần thiết, đến khi có tranh chấp (phổ biến là các tranh chấp về tài sản trong các vụ án ly hôn) không có chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình.

Từ các phân tích trên và qua tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, cần thiết phải bổ sung quy định theo hướng: Đương sự chỉ có quyền cung cấp chứng cứ cho đến trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, trừ trường hợp bất khả kháng.

1.1. Quy định về thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự

1.1.1. Quy định về điều kiện khởi kiện, điều kiện thụ lý vụ án dân sự BLTTDS (sửa đổi) quy định về quyền khởi kiện của nguyên đơn và trách nhiệm thụ lý vụ án dân sự của Tòa án. Tuy nhiên, việc khởi kiện của nguyên

đơn chỉ được Tòa án chấp nhận thụ lý khi có đủ điều kiện khởi kiện và đáp ứng đủ các yêu cầu để được Tòa án thụ lý.

Hiện nay, theo điểm d khoản 1 Điều 168 BLTTDS (sửa đổi) quy định Tòa án trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp “chưa có đủ điều kiện khởi kiện”; đồng thời, điểm c khoản 2 Điều 168 Bộ luật này cũng quy định: sau khi Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện, đương sự có quyền nộp đơn khởi kiện lại trong trường hợp “đã có đủ điều kiện khởi kiện”. Tại điểm 7.2 mục 7 Phần I Nghị quyết số 02/2006/ NQ-HĐTP chỉ hướng dẫn “Chưa có đủ điều kiện khởi kiện là trường hợp các đương sự có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định về các điều kiện để khởi kiện (kể cả quy định về hình thức, nội dung đơn kiện), nhưng đương sự đã khởi kiện khi còn thiếu một trong các điều kiện đó” [19]. Như vậy, BLTTDS (sửa đổi) và các văn bản hướng dẫn thi hành đều không có quy định cụ thể về điều kiện khởi kiện vụ án dân sự.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

Theo quy định của pháp luật và qua thực tiễn hoạt động giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cho thấy, để khởi kiện vụ án dân sự, nguyên đơn phải có trách nhiệm chứng minh giữa nguyên đơn và bị đơn trước đó đã tồn tại một quan hệ pháp luật dân sự mà khi các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ pháp luật này đã phát sinh tranh chấp do có hành vi vi phạm của bị đơn làm xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Việc chứng minh được thực hiện bằng cách, nguyên đơn phải xuất trình cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ để chứng minh giữa nguyên đơn và bị đơn đã tồn tại một quan hệ pháp luật dân sự mà tranh chấp về quan hệ pháp luật đó thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Người khởi kiện không những phải chứng minh rằng mình có quyền, lợi ích bị xâm phạm hoặc bị tranh chấp mà họ còn phải có tư cách pháp lý. Tư cách pháp lý cho phép người khởi kiện được đứng đơn khởi kiện. Thông thường người khởi kiện chính là nguyên đơn hoặc người đại diện hợp pháp

Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án về Hôn nhân và gia đình trên địa bàn Hà Nội - 12

của nguyên đơn. Nguyên đơn có thể tự mình trực tiếp thực hiện quyền khởi kiện hoặc có thể ủy quyền cho người khác thay mình làm đơn khởi kiện.

Như vậy, khi cá nhân, cơ quan, tổ chức chứng minh được mình có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hoặc bị tranh chấp và họ có tư cách pháp lý thì họ có quyền khởi kiện - đây chính là điều kiện khởi kiện vụ án dân sự.

Mặc dù pháp luật quy định việc khởi kiện là quyền của đương sự, nhưng pháp luật cũng quy định đơn khởi kiện của người khởi kiện chỉ được Tòa án chấp nhận thụ lý giải quyết khi đáp ứng đủ các điều kiện thụ lý. Tuy nhiên, BLTTDS hiện hành và các văn bản hướng dẫn cũng chưa có quy định cụ thể về các điều kiện thụ lý vụ án dân sự mà chỉ có các quy định về thẩm quyền xét xử vụ án dân sự của Tòa án, về các thủ tục tiền tố tụng, về thủ tục tạm ứng án phí, về hình thức và nội dung đơn khởi kiện...Thực tế cho thấy, Tòa án chỉ thụ lý vụ án dân sự khi đương sự đã đáp ứng đủ thủ tục theo các quy định này.

Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi cho rằng BLTTDS cần có các quy định cụ thể hơn về điều kiện khởi kiện, điều kiện thụ lý vụ án dân sự để bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự, đồng thời tạo thuận lợi cho Tòa án trong quá trình xem xét thụ lý vụ án dân sự. Việc chỉ quy định các trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện dẫn đến trên thực tế, có không ít trường hợp đương sự bị Tòa án trả lại đơn sẽ không thực hiện được quyền khởi kiện do không tìm thấy trong BLTTDS các quy định về điều kiện khởi kiện, điều kiện thụ lý vụ án dân sự.

1.2. Quy định về thông báo thụ lý vụ án dân sự và thông báo tài liệu, chứng cứ cho các bên đương sự

Theo quy định tại Điều 174 BLTTDS (sửa đổi) thì khi thông báo thụ lý dân sự, Tòa án chỉ thông báo danh sách các tài liệu, chứng cứ mà người khởi kiện nộp kèm theo đơn khởi kiện. Trong khi đó, Bộ luật không có quy định về

thời hạn đương sự phải giao nộp tài liệu chứng cứ và theo tinh thần của Bộ luật này thì trong suốt quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm và kể cả trong suốt quá trình giải quyết vụ án, đương sự vẫn có quyền cung cấp chứng cứ bất kỳ thời điểm nào của quá trình giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, BLTTDS (sửa đổi) lại không quy định thủ tục Tòa án phải thông báo cho các bên biết về việc cung cấp, bổ sung chứng cứ mới của đương sự phía bên kia. Do đó, đối với những chứng cứ mới mà đương sự xuất trình sau khi Tòa án thụ lý vụ án thì đương sự phía đối lập không thể biết được, nếu Tòa án không thông báo. Tại các điều từ Điều 175 đến 178 BLTTDS (sửa đổi) đã quy định thời hạn việc bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải trả lời về việc khởi kiện của nguyên đơn. Song, không có quy định nào của BLTTDS (sửa đổi) quy định đương sự sẽ phải chịu chế tài, nếu không cung cấp chứng cứ trong các thời hạn trên và quy định đương sự không được cung cấp chứng cứ ở các giai đoạn tố tụng tiếp theo. Mặt khác, tại mục 4 Phần I Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao Hướng dẫn thi hành các quy định của BLTTDS (sửa đổi) về "Chứng cứ và chứng minh" có hướng dẫn:

Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, nếu thấy chứng cứ mà đương sự giao nộp chưa đầy đủ cơ sở để giải quyết thì Tòa án yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ theo khoản 1 Điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự. Khi yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ, Tòa án cần nêu cụ thể chứng cứ cần giao nộp bổ sung [18].

Khi đương sự cung cấp chứng cứ mới tại phiên tòa sơ thẩm thì đương sự phía đối lập cũng không thể biết được chứng cứ này vì theo điểm 2.1 Mục 2 phần III Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì tại phiên tòa sơ thẩm dân sự đương sự không có quyền được ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ mà đương sự chỉ được yêu

cầu ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án trước khi tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án. Như vậy, với quy định và hướng dẫn nêu trên, tại phiên tòa sơ thẩm dân sự khi trình bày yêu cầu, các bên đương sự vẫn có quyền cung cấp chứng cứ mới để chứng minh cho yêu cầu của mình. Điều đó, làm ảnh hưởng đến quyền được biết về các chứng cứ của các đương sự, tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, nhiều trường hợp đương sự phía đối lập bị đặt vào thế bị động và quyền tranh luận của họ bị hạn chế.

1.3.Về thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm

Theo quy định tại Điều 11 BLTTDS (sửa đổi), "Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán" [33]. Như vậy, Hội thẩm nhân dân có vai trò ngang bằng với Thẩm phán trong việc xem xét, đánh giá các tình tiết của vụ án dân sự, các căn cứ pháp lý áp dụng cho việc xét xử vụ án và thảo luận để đưa ra phán quyết trong bản án, quyết định về vụ án dân sự. Mặt khác, trong thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm thì Hội thẩm nhân dân luôn có số lượng nhiều hơn số lượng Thẩm phán. Vì vậy, hoạt động xét xử của Hội thẩm nhân dân có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc giải quyết vụ án dân sự.

Thực tế cho thấy, đã có nhiều Hội thẩm nhân dân phát huy tốt vai trò của mình, thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ do luật định, góp phần quan trọng vào hiệu quả công tác xét xử của Tòa án trong thời gian qua. Tuy nhiên, thực trạng hoạt động của Hội thẩm nhân dân vẫn còn có những hạn chế, tồn tại. Có không ít trường hợp Hội thẩm nhân dân chưa phát huy được vai trò độc lập trong quá trình giải quyết vụ án, nhất là khi nghị án, còn bị lệ thuộc, chi phối bởi ý kiến của Thẩm phán. Có ý kiến cho rằng, chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử của Hội thẩm nhân dân còn chưa cao bởi các lý do như: Hội thẩm nhân dân kiêm nhiệm, thiếu kiến thức pháp lý; sự chênh lệch về trình độ giữa Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân; Hội thẩm nhân dân phụ thuộc nhiều vào Thẩm phán và cơ quan hành chính; do thực chất bản án đã được nghị án

từ trước; chế độ đãi ngộ chưa tốt nên không nâng cao được tinh thần trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân [2]. Thực tế có trường hợp Hội thẩm nhân dân không nghiên cứu kỹ hồ sơ, không nắm chắc nội dung vụ án, vì thế Hội thẩm nhân dân không thể độc lập với Thẩm phán khi nghị án, có trường hợp việc tham gia của Hội thẩm nhân dân còn mang tính hình thức, còn vi phạm nguyên tắc của tố tụng dân sự…

Để nâng cao chất lượng bản án, quyết định sơ thẩm, cần thiết phải nâng cao chất lượng xét xử, đặc biệt là chất lượng nghị án. Quy định về cơ cấu thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự hiện nay mới chỉ chú ý đến tính hình thức trong hoạt động xét xử mà chưa chú ý đến chất lượng xét xử. Với cơ cấu và quyền hạn của Hội thẩm nhân dân trong thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm như hiện nay có thể sẽ dẫn đến khả năng chất lượng xét xử và chất lượng nghị án không được bảo đảm. Bỏ vì, xét về trình độ chuyên môn và kỹ năng xét xử, đa phần các Thẩm phán vượt trội hơn so với Hội thẩm nhân dân. Mặt khác, dưới góc độ tâm lý, "đối với Hội thẩm nhân dân, kết quả của vụ án không có ý nghĩa như đối với Thẩm phán nên Thẩm phán chuyên tâm và có trách nhiệm đối với việc giải quyết vụ án hơn" [44]. Bên cạnh đó, xuất phát từ thực tế hiệu quả tham gia tố tụng của Hội thẩm nhân dân ở nước ta hiện nay cũng như yêu cầu của việc xét xử, trước mắt cần tăng cường năng lực cho các Hội thẩm nhân dân bằng cách tổ chức đào tạo, cập nhật kiến thức pháp luật mới cho các Hội thẩm nhân dân và kỹ năng xét xử, chú ý đến việc mời Hội thẩm nhân dân có kinh nghiệm phù hợp với từng loại vụ việc, đặc biệt là các vụ việc về kinh doanh, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình.

Về lâu dài, khi số lượng Thẩm phán đã đủ và hệ thống xét xử đã được tổ chức hợp lý, khắc phục được tình trạng ở các tỉnh, thành phố lớn Thẩm phán phải làm việc với cường độ quá cao như hiện nay thì trong thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm dân sự, cần quy định số lượng Thẩm phán nhiều hơn

số lượng Hội thẩm nhân dân. Mặc dù, sự tham gia của Hội thẩm nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án thể hiện một bước tiến lớn trong nền dân chủ, làm cho hoạt động xét xử gần với người dân hơn, người dân được tham gia vào quá trình ra bản án, quyết định của Tòa án. Nhưng việc giảm số lượng Hội thẩm nhân dân trong thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự không có nghĩa tính dân chủ của hoạt động tố tụng bị giảm bớt mà nhằm giảm dần những quy định mang tính hình thức, đảm bảo cho hoạt động xét xử được thực chất và chính xác hơn. Hơn nữa, "không chỉ có Hội thẩm nhân dân mới là người đại diện cho nhân dân, bảo vệ quyền lợi cho nhân dân, mà Thẩm phán cũng có vai trò, nhiệm vụ này" [47]. Ngoài ra, việc giám sát của nhân dân có thể được thực hiện thông qua các hình thức khác như tăng cường tổ chức các phiên tòa lưu động, công khai bản án... Khi tất cả các điều kiện trên đã được giải quyết, cần sửa Điều 52 BLTTDS theo hướng: Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm hai Thẩm phán và một Hội thẩm nhân dân; trong trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm ba Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân.

Mặt khác, việc BLTTDS (sửa đổi) quy định thành phần Hội đồng xét xử trong trường hợp đặc biệt gồm 02 Thẩm phán và 03 Hội thẩm nhân dân được đánh giá là một quy định tiến bộ, lần đầu tiên được ghi nhận, có thể được áp dụng để giải quyết những vụ án dân sự phức tạp, có nhiều đương sự nhằm bảo đảm cho quá trình giải quyết vụ án được khách quan, chính xác, qua đó bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Tuy nhiên, đáng tiếc là cho đến nay, trong các văn bản hướng dẫn thi hành BLTTDS, kể cả Thông tư liên tịch giữa VKSND tối cao với TAND tối cao và các nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao cũng chưa có quy định hoặc hướng dẫn như thế nào là “trường hợp đặc biệt” để áp dụng quy định Hội đồng xét xử gồm 02 Thẩm phán và 03 Hội thẩm nhân dân; đồng thời, cũng chưa có hướng dẫn việc

Xem tất cả 128 trang.

Ngày đăng: 26/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí