Định giá tài sản cũng là một công việc rất phức tạp và khó khăn, đòi hỏi cùng một lúc phải có nhiều người tham gia, đây là việc làm gặp không ít khó khăn. Ngoài việc lúng túng về chi phí định giá khi chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết, sự phối hợp của các cơ quan chuyên môn trong định giá cũng là vấn đề cần quy định cụ thể trong tố tụng.
Việc Toà án uỷ thác điều tra, trưng cầu giám định thường chờ kết quả trả lời rất lâu, thậm chí phải có nhiều lần gửi Công văn đôn đốc, phải chờ hàng năm thì mới có kết quả trả lời.
Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho nhân dân chưa được chú trọng; mặt khác trình độ dân trí ở nước ta nói chung và ở Thành phố Hà Nội nói riêng trong những năm gần đây tuy đã được nâng lên, nhưng còn thấp, nhận thức pháp luật của người dân còn hạn chế. Hệ thống quy phạm pháp luật có số lượng lớn, được ban hành trong nhiều giai đoạn khác nhau và liên tục bị sửa đổi, các văn bản hướng dẫn ADPL còn chậm, còn thiếu không đáp ứng được nhu cầu ADPL trong thực tiễn dẫn đến các Toà án nhận thức và ADPL khác nhau.
Việc điều tra, xác minh thu thập chứng cứ để chuẩn bị xét xử thì Toà án không thể tự mình làm được tất cả, đối với vụ án hình sự thì có thể áp dụng biện pháp bắt, khám xét nơi ở của bị can. Đối với các đương sự trong vụ án hôn nhân và gia đình thì không thể làm như vậy, mà một phần công việc liên quan, phụ thuộc vào việc xuất trình chứng cứ hoặc sự phối hợp của các cơ quan hữu quan khác, mới làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến vụ án. Tuy đã có các văn bản pháp luật quy định trách nhiệm cho các cơ quan khi có những việc liên quan đến Toà án, nhưng thực tế trách nhiệm và việc phối kết hợp của các cơ quan khi Toà án đến làm việc đạt kết quả chưa cao, còn chậm trễ, có những chứng cứ vụ án và quyết định vụ án phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả xác minh hoặc giám định, có những trường hợp khác khi Toà án yêu
cầu các cơ quan chuyên môn tiến hành một số công việc như thực hiện uỷ thác điều tra, tống đạt giấy báo, tống đạt quyết định, lấy lời khai, xác minh những vấn đề có liên quan đến vụ án… Một số trường hợp các cơ quan được uỷ thác không tích cực phối hợp, họ không cho đây là một nhiệm vụ được pháp luật quy định mà cho là việc của toà án, nên dẫn đến tình trạng việc làm qua loa, kéo dài, thậm chí kết quả chất lượng những văn bản xác minh, lấy lời khai có giá trị thấp. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng giải quyết án thấp và tình trạng vụ án bị dây dưa, kéo dài, vi phạm thời hạn tố tụng.
* Nguyên nhân chủ quan:
Từ kết quả xét xử phúc thẩm và kiểm tra giám đốc án hàng năm thấy rằng, ADPL giải quyết án hôn nhân và gia đình trong những năm qua còn bộc lộ sai sót, dẫn đến án sơ thẩm bị cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm sửa, huỷ, do những nguyên nhân chủ quan như sau:
- Do trình độ chuyên môn của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký, trong quá trình ADPL giải quyết án hôn nhân và gia đình chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc. Biên chế cán bộ của toà án còn ít, trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn nhiều hạn chế, hiệu quả ADPL không cao.
Trước đây, Toà án được coi như cơ quan hành chính trong bộ máy nhà nước, có thời kỳ công tác tổ chức của toà án cấp huyện lại do ngành Tư pháp quản lý, còn nghiệp vụ chuyên môn lại do Toà án cấp trên chỉ đạo, đó cũng là sự bất cập cho việc sắp xếp, sử dụng cán bộ của toà án cấp huyện. Thẩm phán cấp huyện đều phải giải quyết và xét xử hầu hết tất cả các loại án, nên khả năng chuyên sâu và cập nhật thông tin chưa đáp ứng nhu cầu công việc và đa số cán bộ Toà án là cán bộ của các cơ quan đoàn thể, bộ đội xuất ngũ trở về, sau đó cử đi học các lớp nghiệp vụ ngắn ngày, vừa học, vừa làm, việc đào tạo không có hệ thống đã làm cho kiến thức pháp lý của cán bộ Thẩm phán còn
nhiều hạn chế, việc ADPL nói chung và án hôn nhân và gia đình nói riêng còn theo phương pháp tư duy cảm tính, không mang tính lý luận khoa học. Một số Thẩm phán thì chủ quan, làm việc đơn thuần theo kinh nghiệm, một số khác chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu thận trọng, thậm chí còn cẩu thả, đó cũng là nguyên nhân dẫn đến sai sót trong quá trình ADPL.
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Cấu Tổ Chức Của Toà Án Nhân Dân Ở Thành Phố Hà Nội
- Những Hạn Chế Trong Giải Quyết Án Hôn Nhân Và Gia Đình Của Tòa Án Nhân Dân Ở Thành Phố Hà Nội Và Nguyên Nhân
- Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án về Hôn nhân và gia đình trên địa bàn Hà Nội - 9
- Một Số Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Áp Dụng Pháp Luật Trong Giải Quyết Án Hôn Nhân Và Gia Đình Của Toà Án Nhân Dân Ở Thành Phố Hà Nội
- Quy Định Về Thủ Tục Khởi Kiện Và Thụ Lý Vụ Án Dân Sự
- Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án về Hôn nhân và gia đình trên địa bàn Hà Nội - 13
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
- Khi ADPL đối với các vụ án hôn nhân và gia đình ở cấp xét xử sơ thẩm, Hội thẩm nhân dân là chủ thể không thể thiếu được nhằm đảm bảo cho việc xét xử khách quan đúng pháp luật. Hội thẩm nhân dân khi tham gia xét xử ngang quyền với Thẩm phán, khi nghị án biểu quyết theo đa số.
Tuy quyền được pháp luật giao cho các Hội thẩm nhân dân như vậy, nhưng thực tế kiến thức pháp lý của Hội thẩm nhân dân còn hạn chế, một số ít Hội thẩm nhân dân được đào tạo qua Đại học Luật, còn hầu hết là trình độ chuyên môn ở các lĩnh vực khác nhau. Qua từng nhiệm kỳ bầu Hội thẩm nhân dân, Toà án trực tiếp lên chương trình tập huấn kiến thức nghiệp vụ pháp lý, nhưng còn hạn chế về kiến thức pháp luật, phương pháp giảng dạy, thời gian tập huấn ngắn. Khi tham gia xét xử một số Hội thẩm nhân dân không đầu tư nhiều thời gian để nghiên cứu hồ sơ, không hiểu hết tình tiết của vụ án, nên khi ngồi phiên toà các Hội thẩm nhân dân ít hỏi các đương sự mà gần như phó mặc cho Thẩm phán chủ toạ phiên toà điều hành và hỏi trong toàn bộ vụ án. Như vậy, chưa tập trung cao trí tuệ của Hội đồng xét xử để ADPL giải quyết vụ án. Do chất lượng Hội thẩm nhân dân không cao nên kết quả của Việc ADPL tại phiên toà xét xử án hôn nhân và gia đình cũng bị ảnh hưởng nhất định.
- Ngoài những nguyên nhân nêu trên, còn có những nguyên nhân khác ảnh hưởng đến hiệu quả ADPL đó là việc hoạch định chính sách và phát triển ngành TAND, công tác quản lý, sử dụng cán bộ chưa tốt, chưa kịp thời kiểm tra thường xuyên, uốn nắn những sai sót trong nghiệp vụ, cần thường xuyên tập huấn nghiệp vụ và tạo điều kiện nắm bắt đầy đủ, kịp thời các văn bản
hướng dẫn, chỉ đạo công tác nghiệp vụ cho cán bộ, Thẩm phán. Theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 cần đẩy mạnh hơn công tác cải cách tư pháp, chỉ đạo đổi mới phương pháp, cách thức hoạt động giải quyết án hôn nhân và gia đình, nâng cao nghiệp vụ cho Hội thẩm nhân dân, Thẩm phán, cán bộ thư ký; bồ dưỡng giáo dục nâng cao phẩm chất chính trị cho cán bộ Toà án, sắp xếp công việc phù hợp với năng lực cho từng cán bộ, tạo ra những chuyển biến sâu rộng về tư tưởng, nhận thức cho cán bộ, Thẩm phán các Toà án.
Để hạn chế đến mức thấp nhất những sai sót về ADPL trong giải quyết án hôn nhân và gia đình, cần phải khắc phục triệt để những nguyên nhân cơ bản nêu trên.
Kết luận chương 2
Qua nghiên cứu thực trạng ADPL trong giải quyết án hôn nhân và gia đình của TAND ở thành phố Hà Nội, tác giả đã phân tích đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội, cơ cấu tổ chức trong những năm qua của thành phố Hà Nội ảnh hưởng đến việc ADPL giải quyết án hôn nhân và gia đình. Đồng thời phân tích, đánh giá những ưu điểm, hạn chế và rút ra các nguyên nhân khách quan và chủ quan của những hạn chế đó, từ đó làm cơ sở đề ra các giải pháp cụ thể ở chương 3.
Chương 3
GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Yêu cầu đối với việc nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình của toà án nhân dân ở thành phố Hà Nội
3.1.1. Việc nâng cao hiệu quả trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình phải đáp ứng các yêu cầu về cải cách tư pháp
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đã xác định rò mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả các mục tiêu, chiến lược cải cách đặt ra suy cho cùng đều nhằm mục tiêu xây dựng đất nước ta dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hoạt động của các cơ quan tư pháp cũng nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời, là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu của nhà nước pháp quyền đòi hỏi trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân, đồng thời đòi hỏi mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức phải tôn trọng và tuân thủ đúng pháp luật. Như vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các bên đương sự khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự có quyền nhưng cũng phải tuân thủ đúng nghĩa vụ, trách nhiệm của mình theo quy định của pháp luật.
Trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng về xây dựng nhà nước pháp
quyền, Đảng ta cũng đề ra nhiều chủ trương về cải cách tư pháp. Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã xác định rò:
Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ khách quan, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định [11].
Trên cơ sở kết quả thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết chỉ rò cần:
Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rò hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp [13].
Như vậy, việc nâng cao hiệu quả dân sự nói chung và trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng phải quán triệt sâu sắc các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng nêu trên.
3.1.2 Các yêu cầu đối với trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình của Toà án
Việc ADPL nói chung và ADPL trong giải quyết các vụ án Hôn nhân và gia đình nói riêng là một hoạt động phức tạp, bởi nó phải được thực hiện
thông qua các giai đoạn được pháp luật tố tụng, TAND là đại diện cho ý chí của Nhà nước áp dụng các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các tranh chấp trong quan hệ Hôn nhân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Quá trình ADPL để giải quyết án Hôn nhân và gia đình của các Toà án nói chung và TAND ở thành phố Hà Nội nói riêng phải đảm bảo yêu cầu sau:
* Đối với hoạt động thụ lý điều tra, thu thập chứng cứ:
Để đảm bảo giải quyết án Hôn nhân và gia đình được chính xác, đầy đủ nhanh chóng, khi thụ lý và điều tra, Toà án phải xác định rò những vấn đề sau:
- Xác định rò những quan hệ pháp luật trong hôn nhân có tranh chấp giữa các đương sự.
- Khi điều tra vụ án, Thẩm phán phải nắm vững kiến thức pháp luật về nội dung và pháp luật về tố tụng để ADPL trong các giai đoạn giải quyết án Hôn nhân và gia đình, Thẩm phán hướng hoạt động điều tra vào những vấn đề cần giải quyết trong vụ án và xác định đúng những quan hệ pháp luật đang tranh chấp giữa các đương sự, như với vụ án ly hôn phải xác định quan hệ về tình trạng hôn nhân, tài sản chung và tài sản riêng, con chung hoặc những tranh chấp về truy nhận cha mẹ cho con; tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn; tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con…
Các quan hệ pháp luật tranh chấp trong Hôn nhân và gia đình thông thường được xác định từ yêu cầu của đương sự và tuỳ từng trường hợp, Thẩm phán cần phải xác định rò các quan hệ pháp luật tranh chấp trong hôn nhân, đồng thời giúp đỡ đương sự về kiến thức pháp luật để họ đề xuất các yêu cầu và nêu nguyện vọng của mình phù hợp với quy định của pháp luật. Có như vậy, khi giải quyết vụ án mới được triệt để, toàn diện, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của các đương sự.
Trong vụ án Hôn nhân và gia đình phải xác định đầy đủ, đúng tư cách những người tham gia tố tụng, như nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan, người đại diện… Xác định đầy đủ các đương sự trong vụ án nhằm đảm bảo cho họ có những quyền quy định trong tố tụng, như nguyên đơn, bị đơn có quyền tham gia định giá, có quyền tham gia hoà giải, xuất trình các chứng cứ, mời luật sư, kháng cáo bản án… Việc thực hiện những quyền đó là cần thiết để các đương sự có thể tự bảo vệ được những quyền lợi hợp pháp của mình và để cho Toà án giải quyết vụ án Hôn nhân và gia đình được chính xác. Do đó, việc bỏ sót không triệu tập bất cứ những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng hoặc không đảm bảo cho họ thực hiện được những quyền trong tố tụng như đã nêu trên đều là sự vi phạm quyền của các đương sự và dễ dẫn đến bản án, quyết định thiếu chính xác.
Xác định rò những vấn đề cần phải chứng minh, định hướng cuộc điều tra, phương pháp điều tra hướng vào những điểm mấu chốt, những vấn đề cơ bản, những vấn đề nào cần điều tra trước, những vấn đề nào cần điều tra sau, phương pháp lấy lời khai, phương pháp đối chất… Do vậy, Thẩm phán căn cứ vào những quy định của pháp luật về nội dung đối với từng loại vụ việc cụ thể mà xác định những vấn đề liên quan cần chứng minh.
Để xác định được những vấn đề nêu trên, Toà án cần chú ý bảo đảm cho các đương sự được quyền bình đẳng trong việc đề xuất các yêu cầu và cung cấp chứng cứ, biết được những chứng cứ do các đương sự khác xuất trình, biết được yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời…Vì vậy, khi xác định nội dung, kế hoạch điều tra trong mỗi vụ kiện, người Thẩm phán phải nghiên cứu kỹ các đơn khởi kiện của nguyên đơn, trong quá trình điều tra phải kịp thời bổ sung thêm phương hướng vào kế hoạch, trên cơ sở những yêu cầu và chứng cứ mà các đương sự đề xuất.
* Lựa chọn các quy phạm pháp luật để giải quyết vụ án:
Việc lựa chọn quy phạm pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình, bởi đó là căn cứ pháp