lý để giải quyết vụ án đạt hiệu quả tốt. Do đó, phải dựa vào những yếu tố đặc trưng, kết quả xác định trong hoạt động điều tra để lựa chọn đúng, đủ quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh một cách chính xác các tranh chấp trong quan hệ Hôn nhân và gia đình. Lựa chọn được đúng quy phạm pháp luật phải bằng những kiến thức pháp lý của mình, người Thẩm phán phân tích, làm rò các bộ phận cấu thành cũng như đặc trưng pháp lý của quy phạm, từ đó đối chiếu vào vụ án cụ thể đang giải quyết nhằm tìm ra quy phạm phù hợp, tránh tình trạng lẫn lộn giữa các điều luật khi áp dụng.
* Ra bản án, quyết định:
Quyết định, bản án Hôn nhân và gia đình được coi là kết tinh trong hoạt động ADPL của Toà án, nó phản ánh các tình tiết, diễn biến của một vụ án; nêu nhận định và quan điểm giải quyết của Hội đồng xét xử và là căn cứ pháp lý để cơ quan Thi hành án áp dụng thi hành những quyết định của Toà án. Vì vậy, bản án và quyết định phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Bản án, quyết định án Hôn nhân và gia đình đòi hỏi trong xét xử phải phù hợp với sự thật khách quan, đúng pháp luật. Bản án phải giải quyết triệt để những yêu cầu của đương sự, phù hợp với kết quả điều tra vụ án, trên cơ sở vận dụng đúng đắn pháp luật trong các giai đoạn giải quyết vụ án.
- Bản án, quyết định án Hôn nhân và gia đình có sức thuyết phục, phải phân tích sâu sắc, đánh giá đúng đắn bản chất vụ án một cách đầy đủ, khách quan. Phải dựa trên những chứng cứ và những tình tiết đã có qua giai đoạn điều tra và được thẩm tra tại phiên toà.
- Bản án, quyết định Hôn nhân và gia đình đảm bảo tính chính xác và sức thuyết phục cao. Đó là một trong những cơ sở để nâng cao ý thức pháp luật, ý thức tự giác tuân thủ pháp luật của quần chúng nhân dân khi tham gia quan hệ Hôn nhân và gia đình, đồng thời từng bước đưa pháp luật nói chung và Luật Hôn nhân và gia đình nói riêng đi vào đời sống, góp phần làm lành mạnh quan hệ Hôn nhân và gia đình.
- Bản án về Hôn nhân và gia đình phải xác định rò quan hệ pháp luật có tranh chấp về Hôn nhân và gia đình và cho dù đã kiên trì hoà giải nhiều lần không thành, nhưng tại phiên toà vẫn tôn trọng và đảm bảo nguyên tắc đương sự có quyền tự định đoạt quyền lợi của mình, bản án phải giải quyết đúng và đầy đủ những tranh chấp giữa các đương sự.
- Bản án về Hôn nhân và gia đình phải có căn cứ, các tình tiết có liên quan đến vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà mà bản án đã phân tích, đánh giá chính xác. Phải nêu đầy đủ những chứng cứ để chứng minh những sự kiện cần xác định làm căn cứ cho việc nhận định của Hội đồng xét xử một cách chính xác về những vấn đề có tranh chấp cần phải giải quyết trong vụ án Hôn nhân và gia đình.
- Bản án về Hôn nhân và gia đình phải áp dụng chính xác pháp luật về nội dung và hình thức. Nội dung quyết định của bản án phải chuẩn xác, rò ràng, cụ thể. Khi kết luận những vấn đề các bên đương sự có tranh chấp, bản án phải viện dẫn điều khoản áp dụng cụ thể của văn bản luật.
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình của toà án nhân dân ở thành phố Hà Nội
Có thể bạn quan tâm!
- Những Hạn Chế Trong Giải Quyết Án Hôn Nhân Và Gia Đình Của Tòa Án Nhân Dân Ở Thành Phố Hà Nội Và Nguyên Nhân
- Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án về Hôn nhân và gia đình trên địa bàn Hà Nội - 9
- Yêu Cầu Đối Với Việc Nâng Cao Hiệu Quả Áp Dụng Pháp Luật Trong Giải Quyết Án Hôn Nhân Và Gia Đình Của Toà Án Nhân Dân Ở Thành Phố Hà Nội
- Quy Định Về Thủ Tục Khởi Kiện Và Thụ Lý Vụ Án Dân Sự
- Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án về Hôn nhân và gia đình trên địa bàn Hà Nội - 13
- Tăng Cường Công Tác Giải Thích Và Hướng Dẫn Áp Dụng Thống Nhất Pháp Luật
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động Toà án nhân dân ở thành phố Hà Nội nói chung và việc trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình nói riêng
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, việc xây dựng và phát triển các cơ quan Tư pháp nói chung và TAND nói riêng đã không ngừng lớn mạnh về mọi mặt và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Kể từ sau Đại hội VI, sự lãnh đạo của Đảng đối với TAND có sự đổi mới, đã ban hành và chỉ đạo thực hiện nhiều Chỉ thị, Nghị Quyết về công tác Toà án đặc biệt là ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình, góp phần thúc đẩy về tổ chức và hoạt động của TAND các cấp. Nhận thức của các Cấp uỷ và đảng viên về công tác xét xử và ADPL,
về vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Toà án ngày càng đầy đủ hơn. trong thời gian qua, phương thức lãnh đạo của các Cấp uỷ đảng ở thành phố Hà Nội cũng đã được cải tiến, từng bước khắc phục các khuynh hướng sai lệch hoặc buông lỏng sự lãnh đạo đối TAND các cấp đồng thời chú ý nhiều hơn đến công tác kiểm tra việc thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng. Ban cán sự đảng trong các cơ quan TAND ở tỉnh được thành lập, các tổ chức cơ sở đảng đã có sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp và TAND với các cơ quan nhà nước và tổ chức khác. Các cấp uỷ đảng và đảng viên trực tiếp ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình có nhiều cố gắng, quán triệt đường lối chính sách của Đảng vào việc thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Tăng cường đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình ở Thành phố Hà Nội là cần thiết, để đảm bảo hiệu quả ADPL trong hoạt động xét xử nói chung và giải quyết án Hôn nhân và gia đình nói riêng. Sự lãnh đạo của Đảng đối với các cấp TAND là toàn diện và chặt chẽ về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ. Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với TAND ở thành phố Hà Nội trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình tập trung vào những vấn đề cơ bản sau:
Các cấp uỷ đảng ở thành phố Hà Nội quan tâm lãnh đạo, phối hợp giữa Toà án với các cơ quan hữu quan khác trong hoạt động tố tụng như điều tra, xác minh, định giá…. khắc phục tình trạng cục bộ, khép kín hoặc né tránh, thiếu trách nhiệm, lãnh đạo sự phối hợp giữa TAND các cấp với Nhà nước, đoàn thể nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng, nhằm đáp ứng hoạt động giải quyết án Hôn nhân và gia đình.
Thành uỷ Hà Nội cần chú ý lãnh đạo việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ có năng lực, quan tâm các Thẩm phán làm công tác giải quyết án Hôn nhân và gia đình, làm trong sạch nội bộ, kiên quyết xử lý nghiêm những cán bộ thoái hoá biến chất, vi phạm pháp luật.
Tăng cường công tác xây dựng Đảng cho các Chi bộ Đảng TAND các
cấp ở thành phố Hà Nội, kiện toàn Ban cán sự Đảng về tổ chức và nội dung hoạt động, thực sự phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng trong hoạt động ADPL giải quyết án Hôn nhân và gia đình của Toà án ở thành phố Hà Nội.
Bên cạnh sự lãnh đạo của Đảng đối với TAND các cấp nói trên, cần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác TAND các cấp ở thành phố Hà Nội. Đảng lãnh đạo TAND các cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; lãnh đạo thông qua Đảng uỷ, Ban cán sự, Tổ chức cơ sở đảng và đảng viên trong TAND, lãnh đạo bằng phương pháp thuyết phục giáo dục, bàn bạc dân chủ, lãnh đạo bằng quyết định tập thể. Ban cán sự và và Ban chấp hành Đảng uỷ bằng cách theo dòi, cho ý kiến chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện thông qua kết quả ADPL giải quyết án Hôn nhân và gia đình. Đối với những vụ án phức tạp, xin ý kiến chỉ đạo của Cấp uỷ đảng ở địa phương về phương hướng, quan điểm và đường lối giải quyết vụ án.
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
Đối với Bộ luật tố tụng dân sự:
- Bộ Luật tố tụng dân sự cần có những chế định về nguyên tắc tranh tụng
Tranh tụng là nguyên tắc rất quan trọng trong giải quyết, xét xử các vụ án nói chung và các vụ án Hôn nhân và gia đình nói riêng. Bởi qua việc tranh tụng giữa các đương sự tại phiên toà càng làm rò hơn các tình tiết khách quan của vụ án, giúp cho Hội đồng xét xử trong việc đánh giá chứng cứ và đưa ra phán quyết chính xác. Chính bởi tính quan trọng của nguyên tắc này mà Nghị quyết 08/NQ- TƯ ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đã nêu rò: Việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà.
Theo truyền thống, tố tụng của Việt Nam nói chung và tố tụng dân sự nói riêng là tố tụng xét hỏi thẩm vấn. Vì thế, khi thể chế hóa chủ trương tăng
cường tính tranh tụng trong tố tụng dân sự nói chung và trong giải quyết các vụ án Hôn nhân và gia đình nói riêng, cần lưu ý, ưu điểm nổi bật của tố tụng tranh tụng là tính chất dân chủ, công khai, minh bạch của quá trình tố tụng và các quyền con người được đề cao. Nhưng loại hình tố tụng này đặt ra yêu cầu rất cao đối với các đương sự trong việc chứng minh và bảo vệ yêu cầu của mình. Để thuyết phục được Hội đồng xét xử, các đương sự cần phải có sự hiểu biết pháp luật, chứng cứ xác đáng, lý luận sắc bén và lập luận rò ràng. Do đó, thực tế sẽ nảy sinh sự bất bình đẳng giữa các đương sự, nếu một trong các bên không có khả năng tài chính để thuê luật sư giỏi hay đủ kinh nghiệm và kiến thức để tự bảo vệ mình, cho nên thủ tục tranh tụng có hạn chế cơ bản là "không phải là loại hình tố tụng thích hợp cho người nghèo" [39]. Vì vậy, khi mở rộng tranh tụng, triển khai thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp của Đảng về "nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa" không có nghĩa là chuyển đổi tố tụng dân sự Việt Nam từ tố tụng xét hỏi/thẩm vấn sang mô hình tố tụng tranh tụng. "Cần hiểu một cách thống nhất là trong giai đoạn hiện nay mở rộng tranh tụng tức là kết hợp các yếu tố tranh tụng vào thủ tục tố tụng đang tồn tại của pháp luật Việt Nam" [39]. Điều đó có nghĩa việc hoàn thiện pháp luật về tố tụng dân sự ở Việt Nam cần có sự kết hợp hài hòa ưu điểm của mỗi loại hình tố tụng; phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta (với khoảng 80% dân số sống ở nông thôn, trình độ hiểu biết pháp luật của đương sự nói chung còn thấp, số lượng Thẩm phán, Luật sư còn thiếu).
Đối với thủ tục tố tụng dân sự nói chung và thủ tục giải quyết các vụ án Hôn nhân và gia đình nói riêng, để thực hiện chủ trương nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, vấn đề không chỉ dừng lại ở việc bổ sung nguyên tắc "Bảo đảm quyền tranh luận trong tố tụng dân sự” như đã quy định tại Điều 23a BLTTDS (sửa đổi) mà điều quan trọng hơn là phải quy định rò các điều kiện cần thiết để bảo đảm cho việc thực hiện tranh tụng tại phiên tòa. Các
điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tranh tụng là trước hết là quyền của đương sự được biết về yêu cầu và chứng cứ của đương sự phía đối lập. Ngoài ra, trình độ hiểu biết pháp luật của đương sự và việc tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân sự của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cũng là một trong các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thực hiện tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm xét xử.
Từ những lý do nêu trên, cần bổ sung quy định nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự vào Chương II “Những nguyên tắc cơ bản” của BLTTDS (sửa đổi) với nội dung như sau: Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền biết và thực hiện tranh tụng về những vấn đề mà đương sự khác khởi kiện, yêu cầu đối với mình và về chứng cứ của vụ việc dân sự; Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho các đương sự thực hiện quyền tranh tụng bình đẳng, công khai, đúng pháp luật.
Tranh tụng trong tố tụng dân sự cần được hiểu là một quá trình xác định sự thật khách quan về vụ án được bắt đầu từ khi có yêu cầu khởi kiện và kết thúc khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, theo đó các chủ thể tham gia tố tụng được đưa ra chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án theo những trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định. Quá trình tranh tụng trong tố tụng dân sự cần đáp ứng một số yêu cầu cơ bản sau đây:
Thứ nhất, trách nhiệm chứng minh thuộc về các bên tham gia tố tụng, Tòa án không có nghĩa vụ thu thập chứng cứ. Trong tố tụng dân sự, các đương sự có thể là chủ thể của quan hệ pháp luật tranh chấp hoặc họ là người đưa ra yêu cầu, khiếu nại, họ là người biết rò nguyên nhân, điều kiện phát sinh tranh chấp, vì vậy, họ phải có trách nhiệm làm sáng tỏ vấn đề, chứng tỏ cho Tòa án và những người tham gia tố tụng khác thấy được sự đúng đắn trong yêu cầu của mình, đồng thời chứng minh rằng bị đơn phải có nghĩa vụ
đối với yêu cầu của mình. Trong suốt quá trình tố tụng bên nguyên đơn và bên bị đơn liên tục trao đổi với nhau những chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận cho quyền lợi hợp pháp của mình trước Tòa án trên cơ sở các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tòa án không có nghĩa vụ phải tiến hành điều tra bởi vì nếu Tòa án chủ động thu thập chứng cứ thì sẽ không bảo đảm sự khách quan, vô tư và công minh trong việc phân xử vụ án, không tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự đồng thời không phát huy tính tích cực, chủ động của các đương sự, gây nên tâm lý ỷ lại của các đương sự.
Thứ hai, các hành vi tố tụng của các chủ thể tham gia vào quá trình tranh tụng tuân theo trình tự, thủ tục và thời hạn do pháp luật quy định. Pháp luật tố tụng dân sự và hoạt động tố tụng dân sự của Tòa án nói chung và các chủ thể tham gia tố tụng dân sự nói riêng là hai mặt không thể tách rời của một quy trình tố tụng. Pháp luật tố tụng dân sự là cơ sở pháp lý của hoạt động tố tụng dân sự, vì vậy khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình các chủ thể tham gia vào quá trình tranh tụng phải tuân theo đúng hình thức, trình tự, thủ tục và thời hạn do pháp luật quy định. Việc tuân thủ đúng trình tự, thủ tục và thời hạn do pháp luật quy định nhằm mục đích để cho việc điều hành công lý được phân minh, có hiệu quả và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức.
Thứ ba, quá trình tranh tụng tại phiên tòa được tiến hành một cách công khai, trực tiếp và bằng lời nói. Tại phiên tòa, các bên đương sự được trực tiếp trình bày các yêu cầu, đưa ra các chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý bằng lời nói. Việc các bên đương sự trực tiếp trình bày, tranh luận bằng lời nói là một yếu tố quan trọng để đảm bảo tính khách quan, trung thực trong lời khai của họ, giúp Hội đồng xét xử giải quyết các yêu cầu của đương sự, ra các quyết định chính xác nhất về việc giải quyết vụ án. Những chứng cứ, tài liệu nào đó nếu không được trực tiếp thẩm tra công khai tại phiên tòa đều không được dùng làm căn cứ cho quyết định của Tòa án.
Thứ tư, các chủ thể tham gia tranh tụng được tranh luận về các yêu cầu, các chứng cứ và chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Để có thể phán quyết một bản án công minh, làm sáng tỏ được các tình tiết cần chứng minh của vụ án, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì các đương sự phải được tranh luận về chứng cứ, khẳng định giá trị chứng minh của chứng cứ mà mình xuất trình trước Hội đồng xét xử, trình bày quan điểm, lập luận của mình về các tình tiết của vụ án nhằm mục đích để Hội đồng xét xử giải quyết các yêu cầu của đương sự, ra các quyết định chính xác nhất về việc giải quyết vụ án.
Thứ năm, trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa Thẩm phán đóng vai trò là người trọng tài để phân xử giữa hai bên tham gia tranh tụng. Để bảo đảm sự công bằng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong tố tụng dân sự đòi hỏi Tòa án phải khách quan, thái độ vô tư và công minh đối với cả hai bên. Tòa án có vai trò quan trọng và quyết định trong việc bảo đảm sự bình đẳng của các chủ thể tham gia tranh tụng và giải quyết đúng đắn vụ kiện. Trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa vai trò chủ động thuộc về các luật sư là người dẫn dắt việc nêu câu hỏi và kiểm tra nhân chứng, quyết định tiến trình và nhịp độ phiên tòa. Chức năng chủ yếu của Thẩm phán là người “trọng tài” nhân danh công lý để phân xử giữa hai bên tham gia tranh tụng, duy trì trật tự phiên tòa và quá trình tranh tụng giữa hai bên, hướng quá trình tranh tụng vào việc giải quyết các yêu cầu của các đương sự, các căn cứ thực tiễn và pháp lý của các yêu cầu đó cũng như các tình tiết khác nhau về quan hệ pháp luật dân sự mà từ đó phát sinh tranh chấp giữa các đương sự. Tòa án có quyền thẩm vấn các bên hoặc các nhân chứng trong trường hợp đặc biệt cần thiết để làm rò thêm lời trình bày của họ.