Quan điểm thứ 2: Theo khoản 1 Điều 155 thì Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng nên có thẩm quyền ra quyết định trưng cầu giám định để xác định các vấn đề quy định tại khoản 3 Điều 155. Tòa án được hiểu là cả Tòa cấp sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm đều có quyền ra quyết định trưng cầu giám định, tùy giai đoạn tố tụng.
Nếu ở giai đoạn chuẩn bị xét xử thì do chánh án hoặc phó chánh án ra quyết định (kể cả sơ thẩm và phúc thẩm).
Ví dụ: Trong vụ án cố ý gây thương tích cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định thương tích của người bị hại. Căn cứ vào kết quả giám định này Viện kiểm sát đã truy tố bị can ra trước Tòa. Theo đề nghị của bị cáo, Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định lại đối với bị hại. Tỷ lệ thương tật có thể nhẹ hơn hoặc nặng hơn kết luận do cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát đã trưng cầu, thường là nhẹ hơn, do vết thương đã có thời gian điều trị và phục hồi. Trong nhiều trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận kết quả giám định mới để xử bị cáo ở khung hình phạt nhẹ hơn hoặc thương tích dưới 11% thì quyết định đình chỉ vụ án khi Viện kiểm sát rút truy tố, nếu Viện kiểm sát không rút truy tố thì tuyên bị cáo không phạm tội vì không đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm. Còn ở cấp phúc thẩm sau khi trưng cầu giám định và có kết luận giám định nhẹ hơn có thể xử bị cáo ở khung hình phạt nhẹ hơn hoặc thương tích không đủ cấu thành tội phạm thì tuyên bị cáo không phạm tội.
Nếu tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử ra quyết định trưng cầu giám định lại hoặc giám định bổ sung theo khoản 5 Điều 215 BLTTHS. Sau khi có kết quả giám định mới, nếu được chấp nhận thì hậu quả pháp lý tương tự như trên.
Quan điểm thứ 3: Tòa án chỉ có thẩm quyền trưng cầu giám định theo quy định tại Điều 311 hoặc Điều 315 BLTTHS khi nghi ngờ bị cáo không có năng lực trách nhiệm hình sự theo Điều 13 BLHS mà cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chưa trưng cầu giám định. Tôi đồng ý với quan điểm này vì Viện kiểm sát căn cứ vào kết quả giám định mà Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm
sát đã trưng cầu để buộc tội bị cáo thì việc giải quyết khiếu nại về vấn đề này để Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát giải quyết là phù hợp.
Kết quả giám định tuy không phải là chứng cứ duy nhất, nhưng là chứng cứ quan trọng trong việc xác định bị cáo có phạm tội hay không? xác định khung hình phạt đối với bị cáo trong nhiều vụ án hình sự. Do vậy trình tự, thủ tục tiến hành việc giám định cần phải hết sức chặt chẽ, rò ràng. Trong đó thẩm quyền trưng cầu trưng cầu giám định của Tòa án cần phải được nhận thức đúng, để việc ADPL được chính xác. Nhưng theo quy định tại điều 65; 155; 215 BLTTHS dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, cần phải sửa đổi kịp thời các quy định này.
Tranh tụng tại phiên tòa cần phải được đưa lên thành một nguyên tắc trong BLTTHS.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa thì điều tiên quyết và quan trọng nhất trong BLTTHS phải thể hiện rò tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét xử, từ đó cụ thể hóa hơn nữa những quy định về tranh tụng tại phiên tòa, tạo ra cơ chế thích hợp và hiệu quả cho quá trình tranh tụng. Từ việc thừa nhận là một nguyên tắc thì tất cả các cơ quan bảo vệ pháp luật và các chủ thể khác tham gia vào quá trình tố tụng đều phải ý thức và hướng mọi hoạt động của họ theo nguyên tắc ấy.
Trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nên có vai trò là trọng tài phán quyết vụ án, để việc xét hỏi theo hướng buộc tội là của đại diện Viện kiểm sát việc xét hỏi theo hướng gỡ tội là của Luật sư bào chữa. Tuy nhiên BLTTHS hiện nay vẫn có những quy định chưa phù hợp, điều đó làm cho các chủ thể tham gia tranh tụng không nhận thức đúng và đầy đủ về vai trò của mình trong tranh tụng nên không tích cực, chủ động trong việc thực hiện chức năng của mình mà ỷ lại và phụ thuộc vào Hội đồng xét xử. Mặc dù đã có sự sửa đổi nhưng quy định tại các điều từ Điều 207 đến Điều 215 BLTTHS như hiện nay vẫn còn đặt quá nặng trách nhiệm chứng minh lên vai Hội đồng xét
Có thể bạn quan tâm!
- Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa - 12
- Các Quan Điểm Cơ Bản Về Về Nâng Cao Chất Lượng Áp Dụng Pháp Luật Hình Sự Của Tòa Án Nhân Dân
- Các Giải Pháp Bảo Đảm Chất Lượng Áp Dụng Pháp Luật Hình Sự Của Tòa Án Nhân Dân
- Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa - 16
- Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa - 17
- Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa - 18
Xem toàn bộ 151 trang tài liệu này.
xử. Theo tôi, các quy định về trình tự thủ tục xét hỏi tại phiên tòa trong BLTTHS cần phải sửa đổi theo hướng để cho các bên tranh tụng thực hiện trách nhiệm chứng minh và tiến hành xét hỏi là chủ yếu, còn Tòa án thực hiện việc giám sát, duy trì trình tự xét hỏi và có quyền tham gia vào quá trình đó ở bất kỳ thời điểm nào khi thấy cần thiết phải làm sáng tỏ các tình tiết nào đó về vụ án chưa được các bên làm rò trong quá trình xét hỏi. Trong các điều luật về xét hỏi cần quy định: khi xét hỏi Kiểm sát viên hỏi trước sau đó đến người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Các thành viên Hội đồng xét xử có thể hỏi ở bất kỳ thời điểm nào về các tình tiết cần làm sáng tỏ.
Bảo đảm sự bình đẳng giữa Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa với luật sư bào chữa cho bị cáo, bị cáo.
Quyền nhờ người khác bào chữa của bị can, bị cáo đã được pháp luật tố tụng hình sự nước ta quy định nhưng nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Hiện nay BLTTHS năm 2003 đã có sự sửa đổi và quy định nhiều hơn về quyền của người bào chữa như: sự tham gia tố tụng của của Luật sư từ khi có quyết định tạm giữ; có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ; quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa; đưa ra tài liệu và đồ vật; sao chụp tài liệu... Tuy nhiên, để thực sự bình đẳng trong tranh tụng thì cần sửa đổi BLTTHS theo hướng đảm bảo hơn nữa quyền bình đẳng của Luật sư trước và trong phiên tòa để họ có thể tranh tụng một cách dân chủ, bình đẳng với bên buộc tội. BLTTHS 2003 chưa hoàn toàn tạo ra cơ chế, điều kiện thuận lợi nhất để thực hiện quyền bình đẳng của Luật sư - với tư cách là một bên tranh tụng.
Để tranh tụng thực sự dân chủ và có hiệu quả, cần bổ sung một số quyền cho bên gỡ tội:
+ Luật sư, bị cáo là bên gỡ tội trong quá trình tranh tụng, hoàn toàn bình đẳng với Viện kiểm sát là bên buộc tội.
+ Quyền đề xuất nhân chứng cần triệu tập đến phiên tòa.
+ Quyền bác bỏ nhân chứng do phía buộc tội đưa ra.
+ Bỏ quy định khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa phải có trách nhiệm giao cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án.
+ Bỏ việc cấp giấy chứng nhận bào chữa cho Luật sư theo từng giai đoạn tố tụng vì như thế sẽ khó khăn cho quá trình bảo vệ quyền lợi cho bị cáo. Khi Luật sư tham gia bào chữa từ khi bắt tạm giữ, từ giai đoạn khởi tố, thì có quyền bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị cáo đến khi án có hiệu lực pháp luật (trừ trường hợp bị cáo không yêu cầu).
Quy định cụ thể trách nhiệm chứng minh tội phạm.
Điều 10 BLTTHS quy định "Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng" là chưa rò ràng, chưa rạch ròi chức năng nhiệm vụ của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng. Nghĩa vụ chứng minh tội phạm là của cơ quan buộc tội, chỉ nên quy định đối với cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Còn Tòa án là cơ quan xét xử chỉ nên có vai trò là trọng tài trong quá trình giải quyết vụ án, phán quyết của Tòa án chủ yếu dựa vào kết quả tranh tụng tại phiên Tòa, bên nào có chứng cứ và lý lẽ thuyết phục thì căn cứ vào pháp luật Tòa án chấp nhận quan điểm của bên ấy, không phụ thuộc là bên buộc tội hay gỡ tội. Nên sửa đổi quy định này cho phù hợp.
Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đối với Tòa án cần phải loại bỏ.
Theo Điều 23 BLTTHS Viện kiểm sát vẫn đồng thời có chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong đó có kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án. Một cơ quan vừa có thẩm quyền buộc tội, vừa có thẩm quyền giám sát hoạt động của cơ quan khác ra phán quyết về hoạt động buộc tội của mình thì sao có thể bình đẳng và độc lập được, Viện kiểm sát vừa là cơ quan ADPL lại vừa là cơ quan giám sát hoạt động ADPL là không khách quan, thực tế không ít trường hợp Viện kiểm sát thiết tha đề nghị Tòa án xử theo
mức hình phạt dưới khung hình phạt hoặc cho bị cáo cải tạo ngoài xã hội...như Viện kiểm sát đã đề nghị. Do nể nang, Tòa án đã chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát, tính độc lập của Tòa án bị ảnh hưởng. Mặt khác do có vị trí là đại diện cơ quan giám sát nên Kiểm sát viên duy trì quyền công tố tại phiên tòa vẫn ngồi ngang hàng với Hội đồng xét xử, cao hơn vị trí ngồi của luật sư và những người tham gia tố tụng khác, là sự bất bình đẳng với những người tham gia tố tụng khác.
Vì vậy chức năng giám sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đối với Tòa án cần phải loại bỏ. Sửa đổi như vậy vừa đảm bảo nhất quán về mặt pháp luật, tạo ra sự độc lập trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của Tòa án, vừa tạo điều kiện để Viện kiểm sát tập trung hơn, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ công tố của mình, đúng với tinh thần Nghị quyết 49 NQ/TW chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố và phù hợp với tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền tại Việt Nam.
- Cần sớm thành lập hệ thống cơ quan điều tra độc lập theo nghị quyết 49 NQ/TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp.
Việc để cơ quan điều tra như hiện nay, tuy có mặt tích cực là có thể phát huy sức mạnh tổng hợp của Cơ quan Công an cho công tác điều tra, phát hiện tội phạm, hỗ trợ tích cực cho công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự, nhưng cũng rất nhiều bất cập. Thủ trưởng cơ quan điều tra ở địa phương là phó trưởng Công an cấp huyện hoặc phó giám đốc Công an cấp tỉnh, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trưởng Công an cấp huyện hoặc Giám đốc Công an cấp tỉnh. Cơ quan điều tra sẽ khó tránh khỏi việc bị cấp ủy chính quyền địa phương can thiệp vào hoạt động điều tra các vụ án cụ thể, nên cơ quan điều tra khó có thể độc lập để tuân theo pháp luật.
Mặt khác, để cơ quan công an vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước về an ninh trật tự vừa thực hiện chức năng điều tra, tập trung quá nhiều quyền lực vào một cơ quan, một cá nhân đứng đầu cơ quan công an địa phương dẫn đến độc quyền và lạm quyền. Việc cả một vùng, một địa phương trông
chờ gần như là duy nhất vào cơ quan công an địa phương đảm bảo an ninh trật tự và điều tra phát hiện tội phạm có thể chưa kịp thời, chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của người dân. Thực tế đã có những cơ quan Công an địa phương không hoàn thành được cả hai nhiệm vụ này, bất lực, thậm chí làm ngơ, bảo kê cho tội phạm hoành hành, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và Nhà nước không được đảm bảo.
Việc thành lập hệ thống Cơ quan điều tra hoạt động độc lập, không phụ thuộc vào cơ quan công an địa phương như hiện nay, tương ứng với hệ thống Viện công tố, theo đúng tinh thần Nghị quyết 49 NQ/TW là một đòi hỏi cấp thiết trong việc đấu tranh, điều tra, phát hiện tội phạm và bảo đảm an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội hiện nay. Cơ quan điều tra có thể chủ động trong việc điều tra phát hiện tội phạm. Đồng thời tạo điều kiện để cơ quan công an tập trung thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về an ninh trật tự, trong quá trình thực hiện chức năng này phát hiện có dấu hiệu tội phạm có thể khởi tố vụ án và chuyển cho cơ quan điều tra tiến hành. Cả hai cơ quan này đều có trách nhiệm phát hiện và khởi tố vụ án, kiểm soát lẫn nhau, sẽ hạn chế việc độc quyền trong việc phát hiện, khởi tố vụ án. Khi có dấu hiệu phạm tội người dân có thể yêu cầu cả hai cơ quan này, sẽ đáp ứng tốt hơn yêu cầu về đấu tranh phòng chống tội phạm.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Tòa án
Sự lãnh đạo của Đảng giữ vai trò quan trọng và quyết định đối với tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp nói chung và hoạt động ADPL hình sự của Tòa án nói riêng, bảo đảm cho việc ADPL hình sự của Tòa án đúng pháp luật, đúng đường lối chính sách của Đảng, giữ vững ổn định chính trị và bản chất nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
Xây dựng đường lối, lộ trình cải cách tư pháp phù hợp với đặc thù Việt Nam và xu thế tất yếu của thế giới. Tiếp thu những giá trị phổ biến của
mô hình Nhà nước pháp quyền, xây dựng Tòa án là cơ quan tư pháp độc lập, có đầy đủ các quyền năng tư pháp, thực sự là cơ quan bảo vệ công lý, công bằng xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của người dân.
Đường lối chính sách của Đảng không chỉ là cơ sở cho cơ quan lập pháp thể chế hóa, cụ thể hóa thành luật thực định mà còn là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt cả quá trình ADPL, vì vậy Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cần phải nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng trong quá trình ADPL hình sự của Tòa án vừa đảm bảo áp dụng đúng pháp luật, vừa phải đảm bảo phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng trong mỗi giai đoạn cách mạng, đặc biệt đối với các vụ án nhạy cảm về chính trị.
Các cấp ủy Đảng cần thường xuyên giáo dục chính trị tư tưởng, quán triệt các văn kiện, nghị quyết, đường lối của Đảng kịp thời cho Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân để họ thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Phán quyết của Tòa án không phải là một phán quyết pháp lý thuần túy mà còn phải phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương, của Nhà nước trong mỗi giai đoạn cách mạng.
Các cấp ủy Đảng cần thực hiện kiểm tra định kỳ đối với đối với Đảng viên công chức Tòa án, kịp thời phát hiện, xử lý đối với nhưng Đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ hoặc có sai phạm.
Ban cán sự Đảng của ngành phải luôn phối hợp chặt chẽ với các cấp ủy Đảng chăm lo công tác cán bộ, kịp thời phát hiện, tuyển chọn những Đảng viên xuất sắc để đào tạo và bổ nhiệm thẩm phán và các vị trí lãnh đạo Tòa án. Giới thiệu các đồng chí đảng viên đủ trình độ, năng lực, uy tín, trách nhiệm và bản lĩnh chính trị vào cấp ủy Đảng và để giữ vị trí đứng đầu TAND các cấp.
3.2.2. Các giải pháp cụ thể
- Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, nâng cao ý thức chính trị, đạo đức nghề nghiệp, trình độ năng lực chuyên môn của thẩm phán.
Để bảo đảm chất lượng của hoạt động ADPL hình sự của Tòa án, việc đổi mới công tác tổ chức cán bộ có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi suy cho
cùng công tác cán bộ là yếu tố con người - chủ thể trực tiếp ADPL. Sinh thời chủ tịch Hồ chí Minh đã căn dặn: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém".
Chủ thể chủ yếu và trực tiếp ADPL hình sự của TAND là Hội đồng xét xử. Hội đồng xét xử sơ thẩm là 01 thẩm phán và 02 hội thẩm hoặc 02 thẩm phán và 03 hội thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm là 03 thẩm phán. Dù là xử sơ thẩm hay phúc thẩm thì thẩm phán đều là chủ tọa phiên tòa, trực tiếp xét xử và điều hành phiên tòa, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm chất lượng ADPL hình sự của Tòa án.
+ Trình độ năng lực của thẩm phán là yếu tố trực tiếp quyết định đến chất lượng ADPL hình sự của Tòa án
Vì vậy cần phải tập trung xây dựng đội ngũ thẩm phán xét xử án hình sự có chuyên môn hóa cao, là những chuyên gia giỏi cả về lý luận và thực tiễn (có thể chuyên môn hóa theo nhóm tội danh của BLHS). Quá trình tuyển chọn này phải được sàng lọc và chứng minh từ thực tế xét xử, từ chất lượng các bản án hình sự đã xét xử, được sự đánh giá cao của đồng nghiệp, cấp trên và kể cả cơ quan tố tụng khác, luật sư, hội thẩm..., kịp thời phát hiện những công chức, thẩm phán có năng khiếu, năng lực sở trường về xét xử án hình sự để giúp đỡ, bồi dưỡng, đào tạo chuyên sâu họ xét xử án hình sự.
Sớm hoàn thiện các quy định về tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán phán. Ngoài tiêu chuẩn theo quy định hiện hành cần phải kết hợp với đánh giá hiệu quả công tác, năng lực thực tiễn. Để có được năng lực thực tiễn thì ngoài bằng cấp, chứng chỉ nghề (lý thuyết) thì đòi hỏi người muốn làm thẩm phán phải nỗ lực rất lớn trong quá trình công tác hàng ngày để tích lũy những tri thức cần phải có của người thẩm phán, như kỹ năng xét xử, kinh nghiệm ADPL, hiểu biết xã hội, am hiểu tâm lý, văn hóa…Trước khi bổ nhiệm hoặc tái nhiệm cần tổ chức thi tuyển nghiệp vụ xét xử hoặc 05 năm 01 lần tổ chức thi sát hạch với toàn thể đội ngũ thẩm phán để sàng lọc những thẩm phán