- Luận án tiến sĩ Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam - thực trạng, nguyên nhân và giải pháp của Nguyễn Văn Điệp, Đại học Luật Hà Nội, năm 2005;
- Luận văn thạc sĩCơ sở lý luận và thực tiễn kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam ở tỉnh Hòa Bình của Quách Đình Lực, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2009;
- Luận văn thạc sĩ Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam của Nguyễn Phạm Tố Phong, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, năm 2013;
- Luận văn thạc sĩ Kiểm sát tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định của Nguyễn Quốc Doanh, Học viện khoa học xã hội, năm 2015.
* Ở cấp độ bài viết nghiên cứu khoa học trên các tạp chí chuyên ngành:
- Bài viết: Áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự của tác giả Đoàn Tấn Minh, Tạp chí TAND, số 7/2009;
- Bài viết: Thẩm quyền của Viện kiểm sát trong việc quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và các biện pháp cưỡng chế tố tụng khác trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh, Tạp chí Kiểm sát, số 1/2011;
- Bài viết: Những vướng mắc trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và kiến nghị sửa đổi, bổ sung của tác giả Phùng Văn Tài, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2012.
Các công trình nghiên cứu trên đây đã nghiên cứu về một số khía cạnh nhất định của các biện pháp ngăn chặn nói chung, biện pháp tạm giam nói riêng. Thông qua đó, tác giả có thể kế thừa và phát triển các vấn đề mang tính lý luận về đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về biện pháp ngăn chặn tạm giam cũng như thực tiễn áp dụng biện pháp này tại địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. Do đó, việc nghiên cứu đề tài: “Áp dụng biện pháp tạm giam từ thực tiễn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh” mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trên phạm vi cả nước nói chung, địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Có thể bạn quan tâm!
- Áp dụng biện pháp tạm giam từ thực tiễn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh - 1
- Khái Niệm, Đặc Điểm Áp Dụng Biện Pháp Tạm Giam
- Chế Độ Tạm Giam Và Quyền Của Người Bị Tạm Giam
- Khái Quát Lịch Sử Lập Pháp Về Biện Pháp Tạm Giam Trong Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam Và Quy Định Về Biện Pháp Này Trong Pháp Luật Của Một Số
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu luận văn nhằm mục đích làm rò những vấn đề lý luận về biện pháp tạm giam trong TTHS của Việt Nam cũng như việc áp dụng biện pháp này trong thực tiễn giải quyết các VAHS trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. Từ đó xây dựng hệ thống giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật về biện pháp này và nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm giam trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về biện pháp tạm giam trong TTHS.
- Làm rò những quy định của pháp luật TTHS hiện hành về biện pháp tạm giam.
- Làm rò thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh để xác định những hạn chế, vướng mắc, tồn tại và bất cập trong quá trình áp dụng, từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá làm cơ sở cho việc hoàn thiện hệ thống quy định của pháp luật TTHS hiện hành.
- Đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật TTHS cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm giam trong thực tiễn quá trình giải quyết VAHS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề về biện pháp tạm giam trong Luật TTHS Việt Nam, kết hợp nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng biện pháp này trong thực tiễn địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh để làm rò những hạn chế, vướng mắc, tồn tại, từ đó kiến nghị những giải pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm giam trong thực tiễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về biện pháp tạm giam và những quy định của Luật TTHS Việt Nam hiện hành về biện pháp này. Đồng thời, luận văn cũng nghiên cứu, làm rò thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giam của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.
- Về không gian: Luận văn khảo sát thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam trên phạm vi địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.
- Về thời gian: Luận văn khảo sát thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam từ năm 2016 đến năm 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận là phương pháp duy vậy biện chứng của triết học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng linh hoạt và hợp lý các phương pháp nghiên cứu cụ thể trong quá trình nghiên cứu, cụ thể như: Diễn giải, quy nạp, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát và phương pháp chuyên gia. Khi sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể này, tác giả luôn tuân thủ cách tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học nhằm đạt được mục đích nghiên cứu đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rò thêm lý luận về biện pháp tạm giam trong TTHS. Trên cơ sở phân tích, làm rò những quy định của pháp luật hiện hành cùng với việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động áp dụng biện pháp tạm giam trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh, luận văn đã kiến nghị những giải pháp thiết thực nhằm hoàn thiện hệ thống quy định về biện pháp tạm giam, đồng thời đưa ra được hệ thống giải pháp hữu hiệu và có tính khả thi, phù hợp điều kiện, hoàn cảnh thực tế của địa phương.
6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc học tập, nghiên cứu nhằm nâng cao nhận thức về biện pháp tạm giam cũng như việc áp dụng biện pháp này trong thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Các vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng biện pháp tạm giam. Chương 2: Thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam trên địa bàn thành phố
Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về biện pháp tạm giam và nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm giam trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.
Chương 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM
1.1. Các vấn đề lý luận về áp dụng biện pháp tạm giam trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của biện pháp tạm giam
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp tạm giam
BLTTHS quy định nhiều biện pháp cưỡng chế nhà nước, được thực hiện bởi những cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhằm đạt được mục đích tố tụng nhất định. Căn cứ vào mục đích áp dụng, có thể phân loại các biện pháp này thành các nhóm:
- Nhóm các biện pháp cưỡng chế đảm bảo thu thập và ghi nhận chứng cứ, bao gồm: khám xét người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, xem xét dấu vết trên thân thể, thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử;
- Nhóm các biện pháp bảo đảm cho quá trình tố tụng được tiến hành một cách thuận lợi, bao gồm: kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, áp giải bị can, bị cáo, dẫn giải người bị tố giác, kiến nghị khởi tố, nhân chứng, tạm đình chỉ chức vụ bị can;
- Nhóm các biện pháp ngăn chặn, bao gồm: bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam, bảo lãnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.
Trong đó, biện pháp ngăn chặn chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến thân thể, quyền con người, các quyền nhân thân của công dân. Do đó, BLTTHS đã có những quy định hết sức chặt chẽ về các biện pháp này, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc áp dụng trong quá trình giải quyết VAHS. Từ đó, bảo đảm cho quá trình tố tụng của các cơ quan có thẩm quyền được thực hiện thuận lợi, việc chứng minh vụ án đạt kết quả tốt, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời góp phần đảm bảo việc thực hiện dân chủ, tôn trọng quyền con người, các quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ.
Tạm giam là một biện pháp ngăn chặn trong TTHS. Việc áp dụng biện pháp này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân như quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, quyền tự do đi lại… Đây có thể xem là biện pháp mang tính cưỡng chế nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn. Do đó, việc nắm vững bản chất, căn cứ, thẩm quyền, thời hạn, thủ tục… áp dụng biện pháp này không những giúp nâng cao hiệu quả quá trình giải quyết vụ án, góp phần vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Để có thể hiểu rò cũng như áp dụng đúng đắn biện pháp tạm giam trong quá trình giải quyết VAHS, đã có nhiều công trình, tài liệu, sách báo đưa ra những khái niệm khác nhau về biện pháp tạm giam.
Quyển “Từ điển giải thích thuật ngữ luật học” của Trường Đại học Luật Hà Nội. Nhà xuất bản Công an Nhân dân năm 1999 đã định nghĩa biện pháp tạm giam như sau: “Tạm giam là biện pháp cách ly bị can, bị cáo với xã hội trong thời gian nhất định nhằm ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội của bị can, bị cáo đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử thi hành án được thuận lợi” [34, tr. 224].
Bên cạnh đó, một số tác giả nghiên cứu khác cũng đưa ra các khái niệm về biện pháp tạm giam trong các công trình của mình. Tác giả Trần Quang Tiệp cho rằng: “Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do người có thẩm quyền của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng hạn chế tự do cá nhân với mức độ nghiêm khắc nhất trong thời hạn tương đối dài đối với bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn tội phạm, đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được tiến hành thuận lợi” [38, tr. 112].
Tác giả Nguyễn Mai Bộ cho rằng: “Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự mà theo đó Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong những trường hợp nhất định có thể tước tự do đối với bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử”[2, tr. 92].
Những khái niệm nêu trên nhìn chung đã chỉ ra được những vấn đề cơ bản về vị trí, vai trò, mục đích áp dụng của biện pháp tạm giam trong TTHS. Tuy vậy, chúng lại chỉ tập trung vào một khía cạnh nhất định của biện pháp này mà chưa có được sự thống nhất mang tính khái quát về biện pháp tạm giam, làm cơ sở cho việc nghiên cứu một cách toàn diện cũng như áp dụng một cách đúng đắn, phù hợp thực tiễn giải quyết vụ án. Theo đó, khái niệm biện pháp tạm giam cần thể hiện rò bản
chất, mục đích, đối tượng và điều kiện áp dụng biện pháp này. Để có thể khái quát được những vấn đề đó đòi hỏi phải làm rò những đặc điểm cụ thể của biện pháp tạm giam trong quá trình TTHS.
Trước hết, cần khẳng định tạm giam là biện pháp ngăn chặn mang tính nghiêm khắc, thể hiện thái độ của Nhà nước đối với người có hành vi phạm tội, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp tạm giam, các cơ quan có thẩm quyền cần phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật để bảo đảm các quyền con người, quyền cơ bản của công dân, tạo thuận lợi cho quá trình giải quyết VAHS, góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bên cạnh đó, bản chất pháp lý của biện pháp tạm giam còn thể hiện ở chỗ đây là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước chỉ áp dụng đối với những đối tượng nhất định trong những trường hợp nhất định do pháp luật quy định, nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa người phạm tội tiếp tục thực hiên tội phạm hoặc gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án.
BLTTHS quy định đối tượng bị áp dung biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can hoặc bị cáo, tức là người đã bị khởi tố hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Tuy vậy, không phải tất cả bị can, bị cáo đều bị áp dụng biện pháp tạm giam mà biện pháp này chỉ có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp:
- Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.
- Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc trường hợp:
+ Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
+ Không có nơi cư trú rò ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
+ Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
+ Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
+ Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
- Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
Một điểm cần lưu ý về đối tượng bị tạm giam là việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với những người nêu trên cũng chỉ mang tính “có thể” chứ không nhất thiết phải áp dụng. Hay nói cách khác, đây là biện pháp mang tính “lựa chọn áp dụng” chứ không phải là bắt buộc. Do đó, khi áp dụng biện pháp này, các cơ quan có thẩm quyền cần xem xét tính pháp lý trên cơ sở quy định của BLTTHS mà còn là sự cần thiết đối với quá trình giải quyết vụ án cũng như không để bị can, bị cáo thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, tiếp tục phạm tội hay gây khó khăn, cản trở cho quá trình giải quyết VAHS.
Tạm giam là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước, luật TTHS nước ta quy định một phạm vi hẹp các chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam. Đó là:
- Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS quân sự các cấp;
- Chánh án, Phó Chánh án TAND và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; HĐXX;
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp. Trong trường hợp này, lệnh tạm giam phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành [24, tr 23 - 42].
Những chủ thể nêu trên chính là những người tiến hành tố tụng, có thẩm quyền chủ yếu trong quá trình giải quyết VAHS.
Tạm giam là biện pháp tạm thời tước bỏ quyền tự do của bị can, bị cáo do cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng trong những trường hợp nhất định. Thời hạn tước bỏ quyền tự do này do pháp luật quy định căn cứ vào giai đoạn tố tụng, tính chất phức tạp của vụ án mà bị can, bị cáo thực hiện.
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn của TTHS. Các biện pháp như giữ người trong trường hợp khẩn cấp, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm chỉ ảnh hưởng đến các quyền của công dân như quyền bất khả xâm phạm đến thân thể, quyền tự do giao tiếp, quyền hội họp… Còn biện pháp bắt, tạm giữ cũng là những biện pháp ngăn chặn có tính nghiêm khắc cao, cũng hạn chế các quyền tự do của công dân nhưng mức độ (thời hạn) tác động, ảnh hưởng thấp hơn nhiều so với biện pháp tạm giam. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng tạm giam tuy nghiêm khắc song nó cũng chỉ là biện pháp ngăn chặn,