một trong những biện pháp cưỡng chế trong quá trình tố tụng nhằm hỗ trợ cho quá trình giải quyết VAHS chứ không phải là hình phạt. Tạm giam được áp dụng nhằm ngăn chặn tội phạm, hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm tội, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được tiến hành một cách thuận lợi, đúng quy định của pháp luật. [40, tr 136-140].
Với mục đích ngăn chặn và phòng ngừa tội phạm, việc quy định biện pháp tạm giam trong BLTTHS có ý nghĩa rất quan trọng. Biện pháp tạm giam góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, củng cố, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự an toàn và vững mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân, tạm giam đúng sẽ góp phần bảo đảm sự dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp quy định như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú và đi lại… tạm giam đúng còn bảo đảm cho việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm có hiệu quả, bảo đảm hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi, thể hiện sự chuyên chính của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về tạm giam như sau: Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong TTHS do người có thẩm quyền của CQĐT, VKS, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp do BLTTHS quy định nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn, cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án [40].
1.1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp tạm giam
Ngoài mục đích chung, thống nhất là ngăn chặn không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng biện pháp tạm giam còn có mục đích riêng nhằm bảo đảm thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng.
Với vai trò là một biện pháp ngăn chặn, tạm giam có ý nghĩa rất lớn trong việc đấu tranh và phòng chống các loại tội phạm cũng như bảo đảm các quyền tự do dân chủ của công dân, cụ thể:
Một là, tạm giam góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, củng cố tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự kiên quyết của nhà nước trong việc
đấu tranh phòng chống tội phạm. Với việc áp dụng biện pháp tạm giam sẽ đảm bảo cho trật tự xã hội được ổn định, pháp luật được giữ vững, chế độ xã hội chủ nghĩa được bảo vệ, các quyền cũng như lợi ích hợp pháp của công dân được tôn trọng.
Hai là, tạm giam tạo cơ sở pháp lý vững chắc nhằm đảm bảo sự tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận. Đảm bảo không một công dân nào bị tạm giam trái pháp luật, khi áp dụng biện pháp tạm giam không đúng pháp luật quy định, công dân có quyền khiếu nại đến các chủ thể có thẩm quyền [11].
Ba là, tạm giam là biện pháp hữu hiệu bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đạt hiệu quả cao nhất. Bởi đây là biện pháp bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng, đảm bảo sự chính xác, khách quan của hoạt động tố tụng, ngăn ngừa các đối tượng tiếp tục phạm tội hoặc tìm cách xóa dấu vết phạm tội, chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án. Ngoài ra, tạm giam còn đảm bảo cho việc thi hành đúng pháp luật và hiệu lực của bản án đã được tuyên.
Có thể bạn quan tâm!
- Áp dụng biện pháp tạm giam từ thực tiễn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh - 1
- Áp dụng biện pháp tạm giam từ thực tiễn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh - 2
- Chế Độ Tạm Giam Và Quyền Của Người Bị Tạm Giam
- Khái Quát Lịch Sử Lập Pháp Về Biện Pháp Tạm Giam Trong Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam Và Quy Định Về Biện Pháp Này Trong Pháp Luật Của Một Số
- Đặc Điểm Tự Nhiên, Kinh Tế - Xã Hội Có Ảnh Hưởng Đến Việc Áp Dụng Biện Pháp Tạm Giam Trong Hoạt Động Giải Quyết Vụ Án Hình Sự Trên Địa Bàn
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
Cuối cùng, tạm giam thể hiện tính ưu việt của nhà nước ta. Đó là biện pháp bảo đảm cho mọi công dân được sống trong xã hội mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ được tôn trọng và bảo vệ, tránh được sự tấn công, xâm hại từ phía các đối tượng nhất định, bảo đảm cho mọi công dân yên tâm sinh sống, học tập, làm việc tham gia vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả cao nhất [34].
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm áp dụng biện pháp tạm giam
Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó Nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật, ra các quyết định áp dụng pháp luật vào trong những trường hợp cụ thể của đời sống xã hội. Trong quá trình TTHS, để đảm bảo việc giải quyết vụ án được đúng đắn, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng dựa trên chức năng của mình đã tiến hành những hoạt động áp dụng pháp luật nhằm làm rò bản chất, nội dung của vụ án, xác định chính xác tội phạm và người phạm tội. Trong đó, áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung, áp dụng biện pháp tạm giam nói riêng chính là một trong những hoạt động áp dụng pháp luật quan trọng nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ án. Đây là hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiến hành đối với bị can, bị cáo trên cơ sở vận dụng các quy định của pháp luật về biện pháp tạm giam nhằm ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội hoặc gây khó khăn, cản trở cho quá trình giải quyết vụ án. Hay nói cách khác, đó là sự cá biệt hóa các quy định của BLTTHS về biện pháp tạm giam đối với bị can hoặc bị cáo cụ thể.
Do biện pháp tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong TTHS nên áp dụng biện pháp này phải do chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiến hành. Điều đó có nghĩa là áp dụng biện pháp tạm giam là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước. Việc áp dụng biện pháp tạm giam phải dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật về biện pháp này. Do đó, nó có tính bắt buộc thi hành đối với bị can, bị cáo bị áp dụng. Như vậy, áp dụng biện pháp tạm giam chính là việc cơ quan tiến hành tố tụng nhân danh Nhà nước để thực thi quy định về biện pháp tạm giam trong quá trình giải quyết vụ án, đảm bảo cho quá trình TTHS được thuận lợi.
Áp dụng biện pháp tạm giam phải tuân theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Tạm giam là biện pháp ngăn chặn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do của đối tượng bị áp dụng cũng như những lợi ích khác của họ. Do đó, việc áp dụng biện pháp này phải được tiến hành theo những căn cứ, điều kiện, trình tự, thủ tục chặt chẽ do BLTTHS quy định. Điều này nhằm bảo đảm cho việc áp dụng biện pháp tạm giam được đúng đắn, phù hợp yêu cầu cần thiết trong quá trình giải quyết vụ án, tránh việc áp dung tràn lan, ảnh hưởng quyền lợi chính đáng của bị can, bị cáo.
Áp dụng biện pháp tạm giam được thực hiện đối với từng bị can hoặc bị cáo cụ thể khi có căn cứ theo quy định của pháp luật. Tạm giam là biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với bị can, bị cáonthuộc những trường hợp luật định mới có thể bị tạm giam. Thậm chí đối với các bị can, bị cáo trong cùng một vụ án thì việc áp dụng biện pháp tạm giam cũng chỉ được tiến hành đối với những bị can, bị cáo thuộc trường hợp pháp luật quy định, còn những bị can, bị cáo khác có thể không áp dụng hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn. Mặt khác, việc áp dụng biện pháp tạm giam là hoạt động mang tính lựa chọn chứ không phải là bắt buộc. Tức là tuy bị can, bị cáo thuộc những trường hợp pháp luật quy định tạm giam nhưng căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, đặc điểm nhân thân của
họ, cơ quan có thẩm quyền có thể quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn đối với những người đó.
Từ những phân tích về đặc điểm của hoạt động áp dụng biện pháp tạm giam trên cho thấy, áp dụng biện pháp tạm giam là hoạt động có tổ chức, mang tính quyền lực nhà nước, do người có thẩm quyền trong cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành nhằm cá biệt hóa các quy định của pháp luật về biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo, đảm bảo thuận lợi cho quá trình giải quyết VAHS.
1.2. Áp dụng biện pháp tạm giam theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
1.2.1. Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam
Theo quy định tại Điều 119 BLTTHS năm 2015 thì tạm giam có thể áp dụng đối với những đối tượng sau:
- Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.
- Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó:
+ Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
+ Không có nơi cư trú rò ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
+ Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
+ Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
+ Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
- Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã [28, tr 110].
Theo đó, người bị áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Khoản 1 Điều 60 BLTTHS năm 2015 quy định bị can là người hoặc pháp nhân đã bị khởi tố về hình sự. Tức là đối với họ đã có quyết định khởi tố bị can của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Còn bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử, hay nói cách khác đối với họ đã có quyết định đưa vụ án
ra xét xử của Tòa án (Khoản 1 Điều 61 BLTTHS năm 2015). Trong trường hợp này, bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam là con người cụ thể. Tuy nhiên, không phải bị can, bị cáo nào cũng bị áp dụng biện pháp tạm giam mà phải thuộc những trường hợp nhất định theo quy định của pháp luật [28, tr 54 – 56]. Đó là các trường hợp:
Thứ nhất là bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình (Khoản 1 Điều 9 BLHS năm 2015). Nếu bị can hoặc bị cáo thuộc vào những trường hợp này thì họ có thể bị tạm giam mà không cần thêm điều kiện nào khác.
Thứ hai là bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp: Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm; không có nơi cư trú rò ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can; bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn; tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Đối với trường hợp này, điều kiện đầu tiên là bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 02 năm. Đồng thời, để có thể tạm giam đối với bị can, bị cáo phạm tội trong trường hợp này, cơ quan tiến hành tố tụng phải làm rò thêm điều kiện thứ hai là bị can, bị cáo đó thuộc một trong năm trường hợp đã nêu ở trên. Điều này tạo thuận lợi cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định căn cứ để áp dụng biện pháp này cũng như đảm bảo tính chặt chẽ trong việc áp dụng biện pháp tạm giam, tránh việc áp dụng mang tính chủ quan, tràn lan, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của bị can, bị cáo.
Thứ ba là bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã. Đây là trường hợp mới được BLTTHS năm 2015 quy định về đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam. Theo đó, bị can, bị cáo nếu phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm mà họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã thì vẫn có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam. Quy định này nhằm đảm bảo cho quá trình giải quyết VAHS được thuận lợi, thể hiện tính toàn diện, bao quát của pháp luật trong việc loại bỏ tất cả các trường hợp mà bị can, bị cáo có thể gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án, kể cả khi người đó phạm tội ít nghiêm trọng với mức hình phạt luật định không cao nhưng có hành vi gây khó khăn cho quá trình TTHS như tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn.
Đối với các trường hợp áp dụng biện pháp tạm giam nêu trên, việc áp dụng biện pháp này là vấn đề mang tính lựa chọn chứ không phải là bắt buộc đối với bị can, bị cáo. Điều đó có nghĩa là tuy bị can, bị cáo thuộc các trường hợp nêu trên với đầy đủ các dấu hiệu pháp luật quy định nhưng vẫn có thể không bị áp dụng biện pháp tạm giam. Việc áp dụng biện pháp này chỉ được đặt ra khi thật sự cần thiết nhằm tạo thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ án hoặc cần để ngăn chặn tội phạm tiếp tục xảy ra, gây thiệt hại cho xã hội và xét thấy chỉ có thể áp dụng biện pháp tạm giam chứ không thể áp dụng biện pháp nào khác. Nếu bị can, bị cáo thuộc trường hợp nêu trên nhưng căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân… của người đó mà các cơ quan tiến hành tố tụng có thể quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn khác thay thế như bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm mà không áp dụng dụng biện pháp tạm giam.
Trên cơ sở tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa, BLTTHS năm 2015 quy định những trường hợp cụ thể không áp dụng biện pháp tạm giam. Đó là bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rò ràng. Tuy nhiên, những đối tượng này vẫn có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam nếu thuộc các trường hợp cụ thể sau:
- Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
- Tiếp tục phạm tội;
- Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối,
cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;
- Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia [28, tr 110].
Quy định này của BLTTHS năm 2015 đã thể hiện rò nét nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong việc tôn trọng quyền con người, quyền của trẻ em, người cao tuổi. Với tư cách là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, việc tạm giam sẽ không thể đảm bảo các điều kiện sinh hoạt thiết yếu cho phụ nữ có thai, nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi hay người già yếu, người bị bệnh nặng. Do đó, trong trường hợp những người này có nơi cư trú rò ràng, cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác để bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền.
1.2.2. Thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam
Với tư cách là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong TTHS, BLTTHS quy định một phạm vi hẹp những chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp này. Theo đó, chỉ những người sau đây mới có quyền ra lệnh, quyết định tạm giam bị can, bị cáo:
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;
- Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS quân sự các cấp;
- Chánh án, Phó Chánh án TAND và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; HĐXX [1, tr 257 - 258].
Tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng khác nhau mà các chủ thể nêu trên sẽ có quyền áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn tố tụng mà mình được giao nhiệm vụ chính khi giải quyết vụ án. Trong đó, VKS với chức năng kiểm sát quá trình giải quyết vụ án sẽ thực hiện việc kiểm tra, giám sát việc tiến hành các hoạt động này. Đặc biệt, lệnh tạm giam của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các cấp phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
1.2.3. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam
Hiện nay, Bộ luật TTHS chưa quy định cụ thể về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam mà chỉ quy định về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung trong TTHS. Như vậy, có thể xác định căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam như sau:
- Để kịp thời ngăn chặn tội phạm
"Kịp thời ngăn chặn tội phạm" là ngăn không cho tội phạm đang được chuẩn bị xảy ra hoặc không cho tội phạm đang xảy ra được tiếp tục. Ngăn chặn kịp thời tội phạm có thể tránh được hậu quả hoặc làm giảm bớt hậu quả của tội phạm. Ngăn chặn kịp thời tội phạm có thể tránh được hậu quả của tội phạm vì ngăn chặn kịp thời sẽ không cho tội phạm được thực hiện, bảo vệ nguyên vẹn khách thể của tội phạm. Căn cứ này được áp dụng trong trường hợp khi có căn cứ cho rằng một người hoặc một nhóm người nào đó đang chuẩn bị thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Căn cứ này thể hiện rất rò trong trường hợp bắt người khẩn cấp. Ngăn chặn kịp thời tội phạm làm giảm bớt hậu quả của tội phạm, căn cứ này thường được áp dụng khi hành vi phạm tội đã xảy ra nhưng chưa kết thúc, ngăn chặn kịp thời trong trường hợp này là ngăn cản không cho người thực hiện hành vi phạm tội thực hiện tội phạm đến cùng. Việc áp dụng căn cứ này thường thấy trong trường bắt người phạm tội quả tang khi người đó đang thực hiện một tội phạm cụ thể nào đó. Căn cứ để kịp thời ngăn chặn tội phạm thường được áp dụng đối với người chưa bị khởi tố bị can, nhưng đã có tài liệu, căn cứ xác đáng để cho rằng một người hoặc một nhóm người chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc đang thực hiện một tội phạm cụ thể.
- Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Hành vi gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thể hiện qua việc sau khi thực hiện hành vi phạm tội, người thực hiện tội phạm có thể bỏ trốn, tiêu hủy, làm giả hoặc thay đổi chứng cứ, xóa các dấu vết của vụ án, bàn bạc nhau trốn tránh pháp luật, mua chuộc, dụ dỗ, lừa phỉnh, cưỡng ép, khống chế người làm chứng, người bị hại... dẫn đến việc gây khó khăn phức tạp cho việc xác định, làm rò sự thật khách quan vụ án. Căn cứ này thường được áp dụng sau khi đã có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, có