Lược Sử Hình Thành Và Phát Triển Của Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam Về Áp Dụng Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời

ngành khác mà không nằm trong BLTTDS năm 2015. Khi xác định được BPKCTT cụ thể này cũng có thể phân loại chúng về thuộc trong các nhóm nêu trên để áp dụng tương tự thuộc trường hợp các nhóm BPKCTT trên.

Ngoài ra còn có nhiều cách phân loại các BPKCTT dựa vào các tiêu chí khác như: Nếu căn cứ vào mối quan hệ của các BPKCTT với vụ việc dân sự khi áp dụng giải quyết thì có thể phân làm hai loại đó là: Các BPKCTT áp dụng độc lập không phụ thuộc vào vụ việc chính; Các BPKCTT phụ thuộc vào vụ việc chính…

1.2. Lược sử hình thành và phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Cho đến nay, chưa có tài liệu nào xác định rõ BPKCTT chính thức xuất hiện vào thời điểm nào trong lịch sử phát triển của TTDS, chỉ biết rằng biện pháp này có bóng dáng từ rất lâu trong lịch sử TTDS. Theo kết quả nghiên cứu của nhà nghiên cứu Lê Tài Triển, việc Toà án nhanh chóng ra quyết định tạm thời, trước mắt để giải quyết tình thế cấp bách, sau đó mới ra bản án, quyết định chính thức giải quyết nội dung VVDS có nguồn gốc hình thành từ một thủ tục rất đặc biệt trước đây trong TTDS, đó là thủ tục cấp thẩm (một thủ tục có mục đích xét xử tạm thời và mau chóng về những sự khó khăn trong các vụ cấp bách hay khó khăn về việc thi hành). Vì thế, cũng không ai biết chính xác thủ tục cấp thẩm có từ khi nào và bắt đầu xuất hiện ở đâu. Có người cho rằng thủ tục này do đạo luật “thập nhị bảng” của thời La Mã truyền lại. Có người cho rằng, thủ tục này do một thủ tục, tục lệ riêng của xứ Normandie lưu truyền về sau. Có một giả thuyết khác sau này cũng được đặt ra trong lịch sử phát triển của TTDS, một lý do góp phần hình thành nên BPKCTT trong TTDS hiện nay còn do việc hình thành các Toà thương mại bao gồm các Thẩm phán do thương nhân bầu lên chuyên tư vấn về thương mại tại các nền cộng hoà có kinh tế hàng hoá phát triển của Bắc Ý. Đến thế kỷ XIV, thiết chế kiểu Ý này hình thành tại các hội chợ ở miền Bắc và vùng Champgne của Pháp với nhiệm vụ giải quyết nhanh chóng, tại chỗ nhiều tranh chấp nảy sinh trong hội chợ. Ngày nay, trong PLTTDS của hầu hết các quốc

gia đều có những quy định về BPKCTT. Có thể, trong PLTTDS về BPKCTT của mỗi quốc gia có những quy định cụ thể khác nhau nhưng tất cả đều ý thức được sự cần thiết và hiệu quả của nó trong việc giải quyết các VVDS nhằm bảo vệ hiệu quả, kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự tại Toà án.

Ở Việt Nam, qua nghiên cứu các tài liệu cho thấy, các quy định của PLTTDS Việt Nam về BPKCTT hiện nay có nguồn gốc hình thành từ thủ tục cấp thẩm, một thủ tục xét xử được cho rằng không những có ích lợi đặc biệt mà còn cần thiết cho sự bảo vệ quyền lợi của tư nhân. Sỡ dĩ, BPKCTT trong TTDS Việt Nam được bắt nguồn từ thủ tục này bời vì cùng với sự đô hộ của thực dân Pháp tại Việt Nam thì các quy định của luật TTDS của Pháp cũng được áp dụng tại Việt Nam, trong đó có thủ tục cấp thẩm. Trong thời kỳ Pháp thuộc đó, nhà nghiên cứu Lê Tài Triển đã nhận xét: Pháp đình cấp thẩm và thủ tục cấp thẩm ở Việt Nam được tổ chức và quy định theo khuôn mẫu điển chế của Pháp.

Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập, do yêu cầu phải xây dựng một hệ thống các quy phạm PLTTDS mới cho phù hợp với một chế độ mới, một nhà nước mới, PLTTDS Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể. Thủ tục cấp thẩm không còn tồn tại mà thay vào đó là các quy định về BPKCTT được Toà án áp dụng trong quá trình giải quyết VADS khi chưa có bản án, quyết định chính thức giải quyết nội dung nhưng cần phải có ngay quyết định tạm thời để giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo toàn chứng cứ, tài sản nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án và thi hành án dân sự. BPKCTT được Toà án quyết định áp dụng rất nhanh chóng nhưng thực chất nó chỉ là quyết định của Toà án về giải quyết tạm thời tình trạng khẩn cấp của VADS. BPKCTT không còn là một thủ tục xét xử độc lập, do một Toà án độc lập xử như thủ tục cấp thẩm trước kia mà nó được PLTTDS quy định như là một trong những biện pháp tố tụng được Toà án sử dụng nhằm giải quyết vụ án, nó có thể tồn tại độc lập trong quá trình giải quyết vụ án nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong VADS. Vì vậy nó đã được quy định trong các văn bản dưới luật như Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp

lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động. Chỉ cho đến khi BLTTDS 2004 được ban hành, các quy định về về BPKCTT mới thể hiện cụ thể và rõ ràng. Hiện nay, BLTTDS năm 2015 đã bổ sung thêm và hoàn thiện thêm về các chế định BPKCTT [47, tr 38].

Bên cạnh pháp luật TTDS, pháp luật tố tụng hành chính cũng có những quy định về BPKCTT, thể hiện tại Luật tố tụng hành 2011 [3, tr 47,48,49,50,51,52, 53]. Song các quy định về BPKCTT trong Luật tố tụng hành chính thể hiện cụ thể, rõ ràng hơn trong BLTTDS năm 2015.

1.3. Cơ sở của việc xây dựng quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giai đoạn tiền tố tụng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

1.3.1. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giai đoạn tiền tố tụng được xây dựng trên cơ sở quyền con người

Xét ở góc độ quyền con người, khi xuất hiện bất công thì công lý là cách thể hiện cơ bản của quyền con người một cách tự nhiên. Trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc đã tuyên bố rằng “Điều cốt yếu là các quyền con người phải được bảo vệ bởi một chế độ pháp quyền...”. Ở bất kì một quốc gia nào trên thế giới, quyền con người đều được ghi nhận trong hệ thống pháp luật của Nhà nước. Mọi chủ thể có quyền, lợi ích bị xâm phạm hay tranh chấp hoặc cần ghi nhận các quyền hay tình trạng pháp lý đều được pháp luật trao cho quyền cầu viện hay yêu cầu Tòa án giải quyết các vụ việc. Tòa án - cơ quan bảo vệ công lý muốn bảo vệ quyền, lợi ích đó cho các bên thì phải thực hiện theo một trình tự tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng. Trong trình tự tố tụng đó có nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau và tùy theo tính chất, đặc điểm của từng giai đoạn tố tụng mà pháp luật cần phải trang bị cho đương sự các quyền năng cụ thể để đương sự có thể sử dụng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Các quyền tố tụng của đương sự được pháp luật ghi nhận có nguồn gốc từ quyền dân sự, đồng thời các quyền tố tụng này lại chính là công cụ hữu hiệu để bảo đảm thực hiện quyền dân sự trong cuộc sống. Các quyền năng này có thể bao gồm nhóm quyền gắn với sự định đoạt của đương sự như quyền đưa ra yêu cầu tố tụng trước Tòa án (có thể là

Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng theo pháp luật Việt Nam - 4

yêu cầu hay khởi kiện làm phát sinh vụ việc, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập) và quyền thay đổi, bổ sung, rút các yêu cầu tố tụng đó; quyền tự hòa giải, tham gia hòa giải; quyền kháng cáo phúc thẩm, quyền đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc, tái thẩm; khiếu nại các quyết định và hành vi tố tụng của Tòa án.

Điều 111 BLTTDS năm 2015 nêu rõ “1. Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án quy định tại Điều 187 của Bộ luật này có quyền yêu cầu Tòa án đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 114 của Bộ luật này để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án

2. Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay chứng cứ, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 114 của Bộ luật này đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Tòa án đó”.

Theo quy định trên thì Tòa án sẽ áp dụng các BPKCTT cần thiết để bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, những yêu cầu cấp thiết, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ… khi đương sự nộp kèm theo đơn khởi kiện. Đối với giai đoạn tiền tố tụng thì BLTTDS năm 2015 chưa quy định, đây là “lỗ hổng” của BLTTDS năm 2015 cần phải hoàn thiện để bảo quyền con người, quyền lựa chọn phương thức được bảo vệ của họ ở giai đoạn tiền tố tụng.

1.3.2. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giai đoạn tiền tố tụng được xây dựng trên cơ sở đường lối của Đảng về hoạt động tư pháp

Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa đã khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước đã và đang thực hiện chủ trương lớn và

nhiệm vụ cấp bách đó là xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Trong Nhà nước pháp quyền thì quyền tư pháp là một bộ phận của quyền lực nhà nước và giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Quyền tư pháp được thực hiện thông qua hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó hoạt động xét xử của Tòa án thể hiện tập trung nhất quyền tư pháp, thể hiện nền công lý, sự công bằng và bình đẳng của các chủ thể trước pháp luật, và là cơ quan Nhà nước duy nhất được quyền nhân danh Nhà nước đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ PLTTDS.

Theo đánh giá của Bộ chính trị “Nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản pháp luật chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế. Thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu”[49].

Chính vì vậy, Bộ chính trị trong những năm gần đây liên tục đưa ra nhiều chiến lược quan trọng về việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp. Cụ thể, tại Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 nhấn mạnh “Trọng tâm là hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, bảo đảm Tòa án xét xử độc lập, đúng pháp luật, kịp thời và nghiêm minh; phân định thẩm quyền xét xử của Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm phù hợp với nguyên tắc hai cấp xét xử. Hoàn thiện cơ chế quản lý Tòa án nhân dân địa phương theo hướng bảo đảm tính độc lập giữa các cấp Tòa án trong hoạt động xét xử” [48]. Tiếp sau đó, Bộ chính trị vạch ra chiến lược cải cách tư pháp tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 với mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là

hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao” và nhiệm vụ đặt ra là "Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đổi mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến Tòa án, Tòa án có trách nhiệm nhận và thụ lý đơn. Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó” [50].

Như vậy, theo định hướng cải cách tư pháp trên thì việc xây dựng và hoàn thiện các chế định về BPKCTT trong giai đoạn tiền tố tụng phải được tiến hành theo định hướng tạo điều kiện cho các đương sự chủ động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong giai đoạn tố tụng cũng như giai đoạn tiền tố tụng, các quyền thương lượng, hòa giải phải được khuyến khích và phải có cơ chế hỗ trợ việc ghi nhận quyền thỏa thuận của đương sự.

1.3.3. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giai đoạn tiền tố tụng được xây dựng dựa trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Pháp luật TTDS và mối liên hệ giữa luật nội dung và luật tố tụng dân sự;

Theo Điều 9 Bộ luật dân sự năm 2005, quy định về nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự như sau “1. Tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. 2. Khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật này hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền: a) Công nhận quyền dân sự của mình; b) Buộc chấm dứt hành vi vi phạm; c) Buộc xin lỗi, cải chính công khai; d) Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; đ) Buộc bồi thường thiệt hại”.

Về mối liên hệ giữa luật nội dung và luật tố tụng, TS. Trần Anh Tuấn đã dẫn quan điểm học thuật của các tố tụng gia Pháp như sau“Khi nghiên cứu về về mối liên hệ giữa luật nội dung và luật tố tụng, giáo sư N.FRICERO cho rằng “Mối liên hệ giữa tố quyền và quyền lợi (quyền chủ quan) là không thể

phủ nhận: quyền lợi (quyền chủ quan) là đối tượng của tố quyền, và học lý phân loại các tố quyền căn cứ vào đối tượng này: tố quyền động sản có đối tượng là một quyền lợi động sản, tố quyền bất động sản là một quyền lợi bất động sản, tố quyền đối nhân dùng cho một quyền lợi đối nhân, và quyền lợi đối vật được sinh ra từ một hành vi pháp lý”. Như vậy, quyền lợi gắn liền với quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, thương mại, lao động chính là đối tượng của quyền khởi kiện và là cơ sở của quyền này” [51].

Theo góc nghiên cứu này, trước khi tham gia vào một quan hệ TTDS cụ thể thì các đương sự chính là chủ thể của quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động. Trong các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng này thì các chủ thể có các quyền dân sự nhất định và chỉ khi một trong các quyền dân sự của chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó mới có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ. Điều này cũng được thể hiện ở các nguyên tắc cơ bản của BLTTDS năm 2015 như:

+) Nguyên tắc Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (Điều 4 BLTTDS năm 2015);

+) Nguyên tắc Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Điều 5 BLTTDS năm 2015);

+) Nguyên tắc Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự (Điều 9 BLTTDS năm 2015);…

Các nguyên tắc này cho phép các cá nhân, tổ chức được quyền tự quyết định về việc giải quyết tránh chấp vụ việc dân sự của mình, họ có quyền khởi kiện hoặc không khởi kiện, quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thông qua các chế định BLTTDS năm 2015, có quyền yêu cầu tòa án áp dụng các BPKCTT nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của mình, bảo vệ tình trạng tài sản, bảo về bằng chứng hoặc bảo đảm việc thi hành án…

1.3.4. Thảo khảo mô hình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giai đoạn tiền tố tụng trên thế giới

Việc xây dựng quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giai đoạn tiền tố tụng cần tham khảo kinh nghiệm về mô hình áp dụng khẩn cấp thạm

thời trên thế giới. Học giả Lê Nết có đề cập về mô hình của một số nước có áp dụng BPKCTT trong giai đoạn tiền tố tụng trong giáo trình về quyền sở hữu trí tuệ: “Về biện pháp khẩn cấp tạm thời, kinh nghiệm của Anh và Đức rất đáng để học tập. Các nước này đã thành lập các tòa án chuyên trách, chuyên ra các quyết định khẩn cấp tạm thời”[23]. Theo kết quả công trình nghiên cứu của tác giả Lê Nết có đề cập thì bất cứ khi nào có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của chủ sở hữu trí tuệ và có bảo đảm rằng nếu yêu cầu này là sai thì chủ sở hữu sẽ bồi thường toàn bộ thiệt hại có phát sinh thì tòa án sẽ ra quyết định áp dụng BPKCTT mà không cần cho người xâm phạm biết. Tác giả có đề cập đây là các lệnh như Ex parte theo luật Đức hay lệnh Mareva theo luật của Anh) và được diễn ra trước khi nguyên đơn khởi kiện tại tòa án (tiền tố tụng). Thêm đó, luật các nước này cũng quy định rằng “sau khi áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời , người yêu cầu áp dụng phải tiến hành khởi kiện người bị coi là xâm phạm ngay để giải quyết hậu quả, nếu không tòa án sẽ thu hồi quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời”. Đây cũng là một hướng giải quyết để xây dựng, hoàn thiện cơ chế áp dụng BPKCTT trong giai đoạn tiền tố tụng của PLTTDS Việt Nam.

1.3.5. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giai đoạn tiền tố tụng được xây dựng dựa trên cơ sở thực tiễn thi hành Pháp luật tố tụng dân sự và phù hợp với thông lệ quốc tế

Bô ̣luâṭ tố tun

g dân sự hi ện hành quy định phạm vi áp dun

g biên

pháp

khẩn cấp tam

thời theo hư ớng cho phép đương sự có thể yêu cầu Toà án áp

dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cùng v ới việc nộp đơn khởi kiện vụ án

hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, nhưng không cho phép yêu cầu áp dung

biên

pháp khẩn cấp tam

thời trư ớc khi khởi kiện vụ án. Việc hạn chế phạm vi

áp dụng các BPKCTT là không phù hợp với các nguyên tắc cơ bản chung của BLTTDS năm 2015.

Trong thực tiễn tố tụng của Việt Nam cũng xuất hiện không ít những trường hợp để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình hoặc tránh những hậu quả xấu có thể xảy ra đương sự chỉ yêu cầu Toà án áp dụng ngay lập tức các biện

Xem tất cả 108 trang.

Ngày đăng: 31/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí