Cơ Sở Khách Quan Và Chủ Quan Của Sự Ảnh Hưởng Tam Giáo Về Đạo Đức Ở Lê Thánh Tông ( 1460 - 1497 )

hoá các giá trị đạo đức tốt đẹp ấy đưa phổ biến vào đời sống thực tiễn Việt Nam. Sau đây chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu khía cạnh chủ quan của quá trình tiếp biến và thực thi các giá trị đạo đức tốt đẹp đó ở Lê Thánh Tông, qua khảo cứu sự nghiệp toàn diện của Lê Thánh Tông và qua các di thảo của ông để lại, từ đó làm nổi rõ lên ảnh hưởng của quan niệm Tam giáo về đạo đức đối với tư tưởng Lê Thánh Tông và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng đạo đức con người Việt Nam hiện nay.

Chương II :

MỘT SỐ NỘI DUNG ẢNH HƯỞNG CỦA TAM GIÁO TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA LÊ THÁNH TÔNG


2.1.Cơ sở khách quan và chủ quan của sự ảnh hưởng Tam giáo về đạo đức ở Lê Thánh Tông ( 1460 - 1497 )

Ở trên chúng ta đã tìm hiểu các đặc điểm đạo đức Tam giáo khi vào Việt Nam.

Sau đây chúng ta tiếp tục tìm hiểu các yêu cầu khách quan của thực tiễn đặt ra và Lê Thánh Tông đã đáp ứng chúng nhờ nỗ lực chủ quan ra sao.

Hoàng đế Lê Thánh Tông sinh 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (25 tháng 8 năm 1442) lúc nhỏ tên là Hạo sau đổi là Tư Thành niên hiệu Bảo Đại thứ ba, là con trai út của Vua Lê Thái Tôn, mẹ Tư Thành là bà Ngô Thị Ngọc Dao.

Bà là con của Ngô Từ khai quốc công thần khởi nghĩa Lam Sơn, Tư Thành sinh ra mới 14 ngày thì ngày mồng 4 thánhg 8 năm Nhâm Tuất (7 / 9/1442) xảy ra chuyện đột tử đầy bí ẩn của Lê Thái Tông ở Lệ Chi Viên, dẫn đến vụ án thảm khốc tru di gia tộc Nguyễn Trãi người anh hùng trong sự nghiệp bình Ngô và sáng lập vương triều Lê sơ. Lê Nhân Tông lên ngôi lúc mới 2 tuổi phong mẹ làm Thái Hậu Nguyễn Thị Anh. Trước đó, theo Lê Quý Đôn trong Đại Việt Thông sử thì; “Khi Quang Thục Hoàng Thái Hậu (Ngô Thị Ngọc Dao) còn là Tiệp Dư đã từng vì trái ý bị Vua Lê Thái Tông bỏ tù ở Vườn hoa, Trịnh Khả cứu Bà thoát nạn. Cho nên Vua Lê Thánh Tông nhớ lại ơn trước nhắc dùng con cháu ông, có ưu đãi hơn bề tôi khác “Truyền thuyết cũng nói bà Ngô Thị Ngọc Dao bị dèm pha nhờ Nguyễn Trãi và Thị Lộ cứu giúp che

chở mới được an toàn sinh ra Tư Thành ở Chùa Huy Văn bên ngoài cung cấm (nay thuộc quận Đống Đa - Hà Nội). Sau đó do bị thất sủng mà Tư Thành vẫn cùng mẹ sống lánh mình trong dân gian, mãi đến năm 4 tuổi mới được Thái Hậu Nguyễn Thị Anh đang nắm chính sự thay con phong làm Bình Nguyên Vương, được trở về cung cấm sống trong phủ đệ riêng, cùng học tập với các

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

thân vương ở tòa Kinh Diên. Tư Thành tuấn tú thông tuệ, biết rõ phận mình

nên ngày đêm chuyên cần chăm học, “ tự che giấu không lộ anh khí ra ngoài”, chỉ vui với sách vở cổ kim, nghĩa lý của Thánh Hiền … sớm khuya không rời quyển sách. Đại Việt sử ký toàn thư có ghi. “ Các quan ở tòa Kinh Diên bấy giờ cho là khác thường, Bà Thái Hậu Nguyễn Thị Anh yêu như con đẻ” . Còn Nhân Tông Bang Cơ coi là “ Người em hiếm có”. Mùa đông năm Kỷ Mão (1459) Lạng Sơn Vương Nghi Dân con đầu của Lê Thái Tông, kết bè đảng giết mẹ con Nhân Tông chiếm ngôi, đổi phong Tư Thành là Gia Vương. Giữa năm Canh Thìn (1460) các triều thần dấy nghĩa, phế truất Nghi Dân, đón lập Tư Thành lên ngôi, Tư Thành ở ngôi 38 năm. Vua Lê Thánh Tông 10 năm đầu có niên hiệu là Quang Thuận ( 1460 - 1469 ), 28 năm sau đổi niên hiệu là Hồng Đức (1470 - 1497). Vua tự xưng hiệu là Thiên Nam Động chủ, Đạo am chủ nhân, mất ngày 30 tháng giêng năm Đinh Tỵ (1497) niên hiệu Hồng Đức thứ 28. Với các chính sách cai trị đúng đắn được đánh giá rất cao, ông được

Ảnh hưởng Tam giáo trong tư tưởng đạo đức Lê Thánh Tông - 6

tôn kính dâng miếu hiệu là Sùng Thiên Quảng Vận Cao minh Quang chính chí đức Đại Công Thánh văn thần vũ Đạt hiếu Thánh Tông Thuần Hoàng Đế . Với tinh thần yêu nước thương dân LêThánh Tông đã cố gắng thực hành làm một Hoàng Đế Thánh Nhân theo mẫu Nho giáo và đã để lại sự nghiệp to lớn

*Những đóng góp về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội dưới thời Vua Lê Thánh Tông.

Phần trên cho thấy các điều kiện vật chất và tinh thần đã chuẩn bị thuận lợi để Vua Lê Thánh Tông trở nên hiếu học tiếp nhận đủ Tam giáo trở thành Vua anh minh, là người đã đưa Đại Việt lên tới thời Hoàng kim của chế độ phong kiến. Ông cũng được ca ngợi là một nhà tư tưởng, nhà chính trị, nhà văn hóa và một người coi trọng hiền tài, Trong thời gian trị vì, Lê Thánh Tông đã kế thừa các chính sách hợp lý ở đời trước đề xuất thực thi nhiều cải cách trong hệ thống chính trị quân sự, hành chính, kinh tế, giáo dục và luật pháp. Ngoài ra, ông đã mở mang bờ cõi Đại Việt, đánh Chiêm Thành (1471),

sát nhập một phần lãnh thổ Chiêm Thành vào Đại Việt; đồng thời có cuộc hành quân về phía Tây đất nước (1479) để mở rộng biên cương.

- Sự nghiệp quân sự : Để giữ yên bờ cõi, bảo vệ chủ quyền, thần dân Hoàng Đế Lê Thánh Tông ra sắc chỉ đầu tiên là chỉnh đốn lại quân đội, đôn đốc và thực hiện các bước để tăng cường các khả năng chiến đấu của các vệ quân năm đạo. Ông thường thân chinh giáo huấn đi tuần phòng ở các vùng biên ải xa xôi cùng với binh lính và là tấm gương tốt cho các Quan phụ trách võ bị. Dấu tích trong một lần tuần tra tại khu vực cửa biển và vùng biển Hạ Long là một bài thơ đề trên vách núi đá mà sau này dân Đại Việt gọi tên là núi Bài Thơ ở thành phố Hạ Long ngày nay.

Kế thừa kho tàng tư tưởng quân sự đời trước và đưa vào thực hành Vua chú ý việc canh phòng và khuyến khích các Quan Lại ở biên cương thường cảnh giác với các âm mưu xâm lược và xử lý kịp thời các sự việc bảo vệ cương giới lãnh thổ với bên ngoài ở thời ông là rất chặt chẽ và cẩn thận. Nên triều đình Nhà Minh rất tôn trọng và có phần e ngại. Trong Đại Việt Sử ký Toàn thư còn nhắc đến việc Lê Thánh Tông ra Sắc Chỉ phải cảnh giác với lực lượng nội gián và các gia nô người Ngô (số người nhà Minh tự nguyện xin đ- ược ở lại sau khi bị bắt làm tù binh trong cuộc chiến trước đây của Thái Tổ Lê Lợi).

Theo các sử gia, kế thừa tư tưởng quân sự của thời trước đồng thời nghệ thuật vũ khí quân sự dưới thời Lê ThánhTông đã có những tiến bộ vượt bậc, do tiếp thu các kỹ thuật chế tạo súng hỏa công cá nhân từ phương Tây và với số vũ khí thu được trước đây trong cuộc kháng chiến với Nhà Minh, kết hợp kỹ thuật vũ khí của Đại Việt thời nhà Hồ đã tạo thành một bộ tư tưởng và vũ khí đa dạng và hùng mạnh.

Lê Thánh Tông rất chú ý đến việc tích trữ lương thảo ở các vùng biên cương để sử dụng cho quân lương khi cần thiết. Một nghệ thuật làm lương khô thời Lê Thánh Tông được sử sách ghi lại là một kỹ thuật đặc biệt của Đại Việt, đó là đồ (hấp) thóc chín và sấy khô. Loại lương khô này có thể cất giữ

vài năm không bị mất phẩm chất và rất tiện cho việc vận chuyển và sử dụng trong chiến tranh, đặc biệt là dùng cho quân đội viễn chinh.

Nhà Vua cải đổi quân đội mạnh mẽ về mặt tổ chức, trước đó quân đội chia làm 5 đạo vệ quân, nay đổi làm 5 phủ đô đốc. Mỗi Phủ có Vệ, Sở. Bên cạnh còn có 2 đạo nội, ngoại, gồm nhiều ti, vệ . Ngoài tổ chức dân thường trực, Lê Thánh Tông còn chú ý lực lượng quân dự bị ở các địa phương, 43 điều quân chính là luật quân đội Lê Thánh Tông ban hành, cho thấy kỷ luật quân đội của ông rất nghiêm ngặt, có sức chiến đấu cao.

- Sự nghiệp Hành chính : Lên nắm triều chính, Lê Thánh Tông nhanh chóng dựa vào Nho giáo chấm dứt tình trạng phân quyền của Triều đình, Ông tập trung chi phối quyền lực tối đa làm việc không biết mỏi mệt, tự mình làm tấm gương minh quân theo mẫu Nho giáo cho các Quan lại. Lê Thánh Tông khẩn trương tổ chức củng cố và xây dựng nền hành chính Đại Việt mạnh mẽ, táo bạo. Nhà nước phong kiến nửa tập quyền các đời từ nhà Trần chỉ có 4 bộ: Hình, Lại, Binh, Hộ. Do vì Vua Lê Thái Tổ giảm xuống chỉ có 3 Bộ: Lại, Lễ, Dân (tức bộ Hộ). Lê Thánh Tông tổ chức cải đổi thành sáu bộ và tập trung quyền lực thâu tóm vào ngôi Vua.

Lại bộ: Trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng và thăng quan tước;

Lễ bộ: Trông coi việc đặt và tiến hành các nghi lễ, tiệc yến, học hành, khoa cử, đúc ấn tín, cất giữ người coi giữ Đình, Chùa, Miếu mạo;

Hộ bộ: Trông coi công việc ruộng đất, tài chính, hộ khẩu, tô thuế kho tàng, thóc tiền và lương bổng của của quan binh;

Binh bộ: Trông coi việc binh, binh chính, đặt quan trấn thủ nơi biên cảnh, tổ chức việc giữ gìn các nơi hiểm yếu và ứng phó các việc khẩn cấp;

Hình bộ: Trông coi việc thi hành luật, lệnh, hành pháp, xét lại các việc tù, đầy, kiện cáo;

Công bộ: Trông coi việc xây dựng, sửa chữa cầu đường, cung điện thành trì và quân đốc thợ thuyền.

Về cơ cấu chính quyền các cấp, ông đã tiến hành xóa bỏ hệ thống tổ chức hành chính cũ thời Lê Thái Tổ từ 5 đạo đổi thành 13 đạo (thừa tuyên) và xây dựng chính quyền đến tận cấp xã, thôn.

Dưới thời Lê Thánh Tông, các quan chỉ được làm việc tối đa đến tuổi 65 ông bãi bỏ luật cha truyền con nối cho các gia đình có công - công thần. Ông tôn trọng việc chọn Quan phải là người có tài và đức và chú trọng con đường khoa bảng, lấy người đỗ đạt Nho học để tuyển Quan.

- Sự nghiệp Kinh tế: Hoàng đế Lê Thánh Tông theo sách “Đạo đức minh quân” cư dân và đời sống dân là gốc còn đặc biệt quan tâm các chính sách nhằm phát triển kinh tế như, sửa đổi luật thuế khóa, điền địa, khuyến nông nghiệp, mở đồn điền. Những nỗ lực nhằm xây dựng phát triển kinh tế Đại Việt của Lê Thánh Tông đã được kiểm chứng qua các bài Chiếu, Chỉ dụ do ông trực tiếp chấp bút và ban bố như: Chiếu khuyến nông, chiếu lập đồn điền, chiếu định quan chế .v.v… Các ngành nghề thủ công nghiệp và xây dựng dưới thời trị vì của ông Lê Thánh Tông phát triển rực rỡ, nghề in và làm giấy ở Đại Việt đạt một trình độ cao của thế giới thời bấy gìơ, số lượng sách in thời này khá đồ sộ. Đặc biệt nhất thời kỳ này là thành tựu trong công nghệ chế tạo vũ khí và đồ sắt chiếm ưu thế. Nhờ đó mà các công cụ sản xuất cũng tinh xảo hiệu quả hơn trước. Đồ gốm, sứ thời Lê sơ phát triển đạt được độ tinh xảo và hoa văn đẹp. Việc giao thương buôn bán đã chấp cánh cho đồ gốm thời này đi xa. Hiện nay bộ sưu tập về đồ gốm Lê sơ cũng rất phong phú. Thương mại và giao dịch buôn bán với các lân bang phát triển mạnh, cùng với bước chân viễn chinh xa xôi của đội quân đế chế Đại Việt. Có thể nói dưới triều Lê Thánh Tông, phiên chợ được mở mang nhiều hơn trước.Chính nhờ sự quan tâm đến việc phát triển thương nghiệp nên nền nông nghiệp có kích thích đã phát triển mạnh mẽ các nghề thủ công như : Dệt lụa, ươm tơ, dệt vải, nghề mộc, nghề chạm, nghề đúc đồng cũng phát triển. Kinh đô Thăng Long 36 phố phường sầm uất, nhộn nhịp tồn tại phát triển đến tận ngày nay. Ph- ường Yên Thái làm giấy, Phường Nghi Tàm dệt vải lục, phường Hà Tân nung

vôi, phường hàng Đào nhuộm điều, phường Ngũ xã đúc đồng, phường gạch và gốm sứ Bát Tràng và nhiều phường khác nữa, v.v…nghiêm trị Quan lại ức hiếp kinh tế của các hạng dân.

- Sự nghiệp giáo dục : Cùng với việc xây dựng thiết chế mới, Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài. Ngoài Hàn Lâm viện, Quốc sử viện, Nhà Thái học, Quốc Tử giám là những cơ quan văn hóa, giáo dục lớn, Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí thư chứa sách, đặc biệt đã sáng lập Hội Tao Đàn gồm những nhà văn hóa có tiếng đương thời mà Lê Thánh Tông là Tao Đàn chủ soái, khuyến khích việc giáo hoá dân bằng Nho học, đạo đức Nho giáo được phổ cập tới tận xã, thôn.

Dưới thời ông, việc thi cử và học tập thường xuyên và rất nhiều Tiến Sĩ và Trạng Nguyên đỗ đạt và thành danh. Ông khởi xướng lập bia Tiến sĩ và tiến hành cho dựng bia để ghi danh, tôn vinh những người tài đức của dân tộc Đại Việt ở Văn miếu - Quốc Tử Giám và các thế hệ các Triều Đình sau này tiếp tục bổ sung các tấm bia vinh danh mới .

Đặc biệt ông rất tích cực trong cải tổ giáo dục có những chính sách mới về thi cử và tránh gian lận trong thi cử. Nhiều lần ông đích thân chấm bài làm và khảo lại các bài thi có nghi ngờ. Luật pháp xử nặng mọi trường hợp vi phạm chuẩn mực dạo đức Nho giáo đi kèm giáo dục.

- Sự nghiệp về Tôn giáo: Dưới thời Lê sơ nói chung, và trong thời vua Lê Thánh Tông trị vì nói riêng, để tôn vinh Nho học Phật giáo, Đạo giáo bị đẩy lui xuống sinh hoạt ở các làng xã, trong khi đó Nho giáo lại được coi trọng và lên ngôi, đặc biệt là khu vực Triều đình và giới Nho học, đổi chỗ các công trình đủ nhấn mạnh là đặc điểm chính của thời kỳ này. Cần nói thêm là do trước đó thực thi Sắc Chỉ tận diệt văn hoá Đại Việt của nhà Minh nên nhiều Chùa chiền, Cung điện và các sách kinh điển phát triển rực rỡ ở các triều đại nhà Lý- Trần - Hồ đã bị xóa bỏ.

Nhà Lê sơ đã phục hồi lại văn hoá Đại Việt rực rỡ.

Nho giáo cũng đóng góp một cách đáng kể vào tín ngưỡng và là cột trụ xây dựng nhà nước phong kiến tập quyền vững chắc và phát triển.

Song cũng cần phải kể đến một số Tôn giáo khác trong đó có Phật giáo Đạo giáo về sau có điều kiện phục hồi tại Đại Việt, thời kỳ sau khi Lê Thánh Tông sát nhập lãnh thổ Chiêm Thành vào Đại Việt cũng góp phần làm phong phú thêm các loại hình tôn giáo đa dạng sau này của Việt Nam. Với chính sách cai trị khôn khéo của Lê Thánh Tông, sự xung đột giữa các cư dân Chăm và Việt, như xung đột Tôn giáo, rất ít xảy ra trầm trọng .

- Sự nghiệp Luật pháp: Bộ Quốc Triều Hình luật của nhà hậu Lê đã được hoàn thiện trong thời Lê Thánh Tông, nên còn được gọi là bộ luật Hồng Đức. Với bộ luật này, Đại Việt đã hình thành một nhà nước pháp quyền sơ khởi và thuộc loại sớm nhất trên thế giới. Nội dung bảo vệ các giá trị đạo đức Nho giáo để răn đe các thần dân, đặc biệt là đội ngũ Quan lại.

Tuy Lê Thánh Tông đã lấy những quan điểm của Nho giáo làm cốt lõi hệ tư tưởng và chỉ đạo việc biên soạn, ban hành luật pháp, nhằm thể chế hóa một nhà nước quân chủ phong kiến Đại Việt, với truyền thống nhân nghĩa, lấy dân làm gốc. Song ở đó vẫn ẩn chứa nhiều giá trị nhân đạo, nhân văn, dấu vết ảnh hưởng của Phật, Đạo bản địa là rất rõ.

Bộ luật Hồng Đức được lưu lại đến ngày nay bao gồm 13 chương với 700 điều, nội dung đạo đức cơ bản của bộ luật lấy Nho giáo làm bảng giá trị, có kết hợp Tam giáo với các giá trị Dân tộc như sau:

+ Giữ cho đất nước luôn ở thế chủ động đối phó với quân xâm lược nước ngoài, bảo vệ an ninh quốc gia và xã thôn có sự tự trị tương đối.

+ Giữ nghiêm kỷ cương, phép nước;

+ Chấn hưng nông nghiệp, coi nông nghiệp là nền tảng của sự ổn định kinh tế xã hội; bảo đảm đời sống cho “ tứ dân” thương yêu dân chúng.

+ Mở rộng giao lưu khuyến khích thủ công nghiệp, thương nghiệp lành mạnh, không phân biệt đối sử thành phần kinh tế, an dân.

Xem tất cả 124 trang.

Ngày đăng: 18/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí