Ảnh hưởng Tam giáo trong tư tưởng đạo đức Lê Thánh Tông - 4

Tôn Quyền ở Giang Đông đã được sư Khương Tăng Hội từ Giao Châu sang truyền đạo, Tôn Quyền đã cho cất chùa Kiến Sơ vào dịp này.

Đại Việt sử ký Toàn thư và Ngô Chí (viết vào thế kỷ IV) chép lại lá thư của một người Hán là Viên Huy, gửi cho Thượng thư Lịch Tuân Úc, năm

207. Thư kể rằng Thái thú Sĩ Tiếp (Sĩ Nhiếp) ở Giao Châu mỗi khi ra đường đều có các nhà Sư Ấn Độ theo xe, xông trầm đốt hương, đánh chuông khánh, thổi kèn sáo.

Do miền Bắc sớm trực tiếp gặp Phật giáo Ấn Độ nên người miền Bắc có từ Bụt (tục ngữ: Gần chùa gọi Bụt bằng anh; Đi với Bụt mặc cà sa, đi với ma mặc áo giấy …) Bụt do gốc tiếng Ấn Buđha. Sau này tiếp xúc Phật giáo Trung Quốc nên có thêm từ Phật, mượn ở cách người Hoa phiên âm từ Buđha (tiếng Hán - Việt là Phật đà).

Về sau, việc truyền đạo trực tiếp từ Ấn sang Ta giảm bớt dần, trong lúc theo đường bộ và đường biển đạo Phật từ phương Bắc du nhập chiếm ưu thế hơn. Do ảnh hưởng từ phương Bắc xuống, hay Bắc tông, Phật giáo Việt Nam chủ yếu thuộc ngành đại thừa. Trái lại, do ảnh hưởng từ phương Nam lên, hay Nam tông, các nước lân bang như Lào, Cam-pu-chia, Thái thuộc ngành tiểu thừa.

Từ thế kỷ III đến nửa đầu thế kỷ XIII : Phật giáo phát triển

Trong các hệ phái Phật giáo ở nước Nam, Thiền tông phát triển mạnh nhất và có nhiều đặc sắc.

Khởi đầu với sư Khương Tăng Hội (đầu thế kỷ III), Sư có công khai sáng Thiền học Việt Nam và là người đầu tiên đem đạo Phật từ Việt Nam sang truyền cho người Hán. Phật giáo Việt Nam lúc này đã là Đại Thừa vì Sư đã cùng các Cao Tăng khác dịch kinh Bát nhã, rồi sư Chi Cương Lương tiếp (kalasivi) dịch kinh Pháp hoa Tam Muội.

Thế kỷ V, theo tục Cao Tăng truyện, có Thiền sư Huệ Thắng, là môn đồ của Sư Đạt-ma Đề- Bà. Sư Huệ Thắng nhiều lần sang Trung Quốc hoằng giáo.

Từ thế kỷ VI đến hết triều Lý, Việt Nam có ba dòng Thiền lớn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

a. Phái Tỳ ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci)

Năm 580 sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi đến Việt Nam, trụ trì mười bốn năm ở chùa Pháp Vân (Bắc Ninh), liễu đạo năm 594. Phái này truyền được mười chín đời. Đời chót có Thiền sư Y Sơn (liễu năm 1213).

Ảnh hưởng Tam giáo trong tư tưởng đạo đức Lê Thánh Tông - 4

b. Phái Vô Ngôn Thông

Năm 820 sư Vô Ngôn Thông từ Trung Quốc sang Việt Nam, trụ trì chùa Kiến Sơ (Bắc Ninh), liễu năm 826. Phái này truyền được mười bảy đời. Vua Lý Thái Tông (1028 - 1054) là môn đệ đời thứ tám.

c. Phái Thảo Đường

Sư Thảo Đường từ Trung Quốc sang Chiêm Thành. Năm 1069, vua Lý Thánh Tông thắng quân Chiêm, đưa Sư về Thăng Long, phong Quốc Sư. Sư trụ trì chùa Khai Quốc.

Phái này truyền được sáu đời. Trong hàng đệ tử có chín nhân vật như: vua Lý Thánh Tông (1054 - 1072), đời thứ hai: quan Tham chính Ngô Ích, đời thứ ba: vua Lý Anh Tông (1138 - 11785) và quan Thái phó Đỗ Vũ, đời thứ tư; quan Thái phó Đỗ Thường, đời thứ năm; Vua Lý Cao Tông (1176 - 1210) và quan Quản giáp Nguyễn Thức, đời thứ sáu.

Phật giáo Việt Nam đời Trần

Đầu thế kỷ XIII, ba phái Tỳ Ni da Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường dần dần sát nhập, đưa tới sự lớn mạnh của phái thiền Yên Tử để thành một phái duy nhất đời Trần là Phái Trúc Lâm.

Phái Yên Tử xuất hiện từ núi Yên Tử. Tổ khai sơn là Thiền sư Hiện Quang (liễu năm 1220). Tổ thứ hai là thầy của vua Trần Thái Tông, được tôn là Trúc Lâm Quốc sư, pháp hiệu Đạo Viên.

Trong hai mươi ba vị tổ của phái Trúc Lâm, tổ đời thứ sau là vua Trần Nhân Tông, pháp hiệu Trúc Lâm Đầu đà đã sáng lập ra dòng thiền Việt đặc sắc.

Trong hoàng tộc có một Thiền sư lẫy lừng là Tuệ Trung Thượng Sĩ, Ngài tên thật là Trần Quốc Trung, tước Hưng Ninh Vương, con cả của An sinh vương Trần Liễu, và là anh ruột của Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn. Khoá Hư lục của vua Trần Thái Tông và Ngữ lục của Tuệ Trung Thượng Sĩ là hai kiệt tác trong thiền học đời Trần.

Đời Trần cũng noi theo Lý, mở khoa thi Tam giáo để chọn nhân tài ra giúp nước.

Phật giáo từ thế kỷ XIV đến cuối thế kỷ XV:

Nhà Hồ (1400 - 1407) rồi nhà Hậu Trần (1407 - 1413) mất, quân Minh xâm chiếm Việt Nam (1413-1427), loạn lạc liên miên, đạo Phật suy yếu, đuổi xong giặc, vua Lê Thái Tổ (1428-1433) và đời Vua Lê Thái Tông, Nhân Tông đều có tổ chức khảo sát trình độ các Sư tăng, Đạo sĩ, ai kém phải hoàn tục.

Cuối từ thế kỷ XIV trở đi, tuy không còn rực rỡ như hai triều Lý- Trần, nhưng đời nào cũng có cao tăng, chân tu xuất hiện, một số dòng thiền vẫn được ghi nhận. Phật giáo vẫn có ảnh hưởng nhất định đến tư tưởng các danh nho như Nguyễn Trãi, Lương Thế Vinh và coi trọng tư tưởng đạo đức của Vua sùng Nho Lê Thánh Tông.

* Đặc điểm Đạo giáo tại Việt Nam đến trước thời Lê Thánh Tông.

Học thuyết Lão Trang trong sáu, bảy thế kỷ trước công nguyên ở Trung Quốc (thời Xuân thu Chiến quốc), là một trong các học thuật tư tưởng nổi tiếng. Các đạo gia khởi thuỷ Lão Tử Trang không chủ trương những điều Tôn giáo huyền bí, trước cảnh thiên hạ đại loạn họ chọn cuộc sống thuận với tự nhiên, bỏ lễ nghĩa ẩn dật, di dưỡng thiên chân, đời sau Đạo gia chuyển biến. Từ thế kỷ I, thời Đông Hán (Hậu Hán), với Trương Đạo Lăng, cái học Lão Trang biến thành một Tôn giáo, gọi là Đạo giáo, Lão giáo và tiếp tục phân phái, có phái thiên về luyện khí, luyện đan để cầu trường sinh, bất lão thường tự nhận là Đạo giáo thần tiên .

Đạo giáo phát triển muôn vẻ. Các đạo sĩ (phương sĩ) chuyên tâm vào bùa chú (phù chú hay phù lục), luyện đan. Họ được gọi là phái thần tiên đan

đỉnh và phù lục. Toàn bộ kinh điển Đạo giáo rất phức tạp, gồm 5.485 quyển, gọi chung là Đạo tạng, gồm Chính Đạo tạng, Tục Đạo tạng. Càng về sau Đạo giáo có nhiều môn phái, rất phức tạp, một số phái chủ yếu là:

- Phái Chính nhất (Thiên sư đạo), phát triển mạnh ở phương Nam, tôn Trương Đạo Lăng làm Thiền sư; con cháu họ Trương đời đời làm thủ lãnh. Các đạo sĩ không xuất gia, gọi là hoá cư đạo sĩ.

- Có phái kết hợp với đủ loại ma thuật để trừ tà, chữa bệnh gọi là Đạo giáo phù thuỷ. Phái Đạo giáo này vào Việt Nam được biết đến nhiều.

- Phái Toàn Chân, xuất hiện thời Liêu Kim, phát triển rộng ở phương Bắc, có cả Đạo sĩ và đạo cổ, đều xuất gia, gọi là Mao Sơn đạo sĩ.

Có thể Đạo giáo du nhập Việt Nam khoảng thế kỷ II, bấy giờ đã mang màu sắc Đạo giáo, nguyên vì ở Trung Quốc, sau khi Hán Linh Đế mất (năm 189), xã hội đại loạn, người Hán có học chạy sang Giao Châu lánh nạn rất đông, trong đó có nhiều đạo sĩ tịch cốc (nhịn ăn), luyện pháp trường sinh. Quan lại Trung Quốc sang đô hộ nước Nam hầu như đều sính phương thuật. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 3, Thái thú Sĩ Tiếp (Sĩ Nhiếp) lâm bịnh, chết đã ba ngày, lại được một đạo nhân là Đồng Phụng đến cho thuốc cải tử hoàn sinh. Lại chép việc Thứ sử Trương Tân (sang Giao Châu từ năm 201) hay đội khăn đỏ, đọc kinh sách Đạo giáo có nhiều phương thuật. Đời Đường, năm 865, Cao Biền sang nước Nam đàn áp các cuộc khởi nghĩa của dân Việt. Họ Cao là một thuật sĩ có hạng, chuyên về phong thủy, ráo riết tìm phá long mạch, trấn yểm các nơi anh linh tú khí của nước Nam, cố ý cho nước Nam không còn sinh nhân tài, anh hùng hào kiệt, sẽ phải lệ thuộc dưới ách đô hộ của phương Bắc đời đời, song không trấn áp nổi linh khí mạnh mẽ của đất phương Nam Ngũ lĩnh này.

Mấy khuynh hướng tiêu biểu của Đạo giáo Việt Nam trước thời Lê Thánh Tông.

a. Khuynh hướng phù chú trừ tà ma :

Tiêu biểu là hình thức trừ ma tà bằng bùa chú trong một thời gian dài có ảnh hưởng đến sinh hoạt dân gian xã hội. Chẳng hạn, cọp được coi là loài thú có thể khu trừ tà ma, do đó nhiều nhà dân, chùa miếu có dán bùa vẽ hình cọp trước cửa để trấn trạch che chở gia đình, và lá bùa ấy có tên "Trừ tà trị bệnh, trấn trạch bình an".

Có thời kỳ bùa chú Đạo giáo có sức lôi cuốn nông dân vào các hội bí mật, hoặc để tương trợ nhau chống lại cường hào ác bá, hoặc để mưu đồ quốc gia đại sự.

Đời Trần Phế đế, ở lộ Bắc Giang có Nguyễn Bố, năm 1379 xưng Vương, hiệu Đường lang Tử Y.

Đời Hồ có Trần Huy cũng dùng phương thuật thu hút đông người theo bị Hồ Quý Ly dẹp năm 1403.

Đời Lê có Trần Cảo dùng Đạo giáo chiêu tập dân chúng nổi loạn. b. Khuynh hướng phong thủy và sấm ký

Khoa phong thuỷ (địa lý) ở nước Nam và việc tiên tri loan truyền sấm ký rất được quần chúng tin theo.

Từ đời Lý đã sử dụng phương thức Sấm ký để tạo thanh thế

Đời Trần - Hồ ở lộ Tân Hưng có Trần Quốc Kiệt làm quan chức An Phủ sứ, soạn hình thế địa mạch cạ.

Đời Lê có Nguyễn Trãi đã mượn hình thức sấm ký để tạo thanh thế, tập hợp quần chúng ủng hộ Lê Lợi

Đời vua Lê chúa Trịnh ở làng Tả Ao, tỉnh Nghệ An, có Nguyễn Đức Huyên vang danh nhờ khoa địa lý.

Sấm ký cũng được nhiều Cao Tăng sử dụng. Làng Cổ Pháp, tỉnh Bắc Ninh, trong Phái Tỳ -niđda - lưu - Chi (Vinitaruci) có nhiều nhân vật lừng lẫy: sư Định Không (thế kỷ VIII, đời thứ tám); sư La Quý An (852 - 939, đời thứ mười), sư Vạn Hạnh (thế kỷ XI, đời thứ mười hai) …

c. Khuynh hướng trường sinh, bí thuật tu tiên :

Vua Trần Dụ Tông (1341 - 1369) cầu đạo trường sinh với đạo sĩ Huyền Vân tu ở núi Niết (núi Phụng Hoàng), huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Đời Trần Thuận Tông (1388 - 1398) có quan tri huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh,` tên Từ Thức, người Hoả Châu cầu trường sinh. Đời Trần- Hồ ở xã Cố Định, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá, có Trần Tu vào ẩn tu ở núi Nưa (Na Sơn) cầu trường sinh.

Đời vua Lê Chúa Trịnh ở huyện Đông Thành có Phạm Viên … sau đến Triều Lê Cảnh Hưng có Nguyễn Hoãn, làng Lan Khê, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá, làm quan Lại bộ thượng thư, Viện Quốc công, Quốc sư Quốc lão, Gia phả họ Nguyễn, mục Tiên khảo đạo tu lục cho biết ông tu tiên từ năm ba mươi tuổi (Ất Sửu 1745), đọc Đạo đức kinh. Năm bốn mươi bốn tuổi lập tĩnh thất để tu luyện ngay trong nhà, năm bốn mươi tám tuổi thờ thần Ngũ Nhạc. Sau lại xây thêm tháp mười hai tầng để luyện khí âm dương … Vì cuồng vọng, ông về sau đi lại sang tà đạo, mất năm 1792, thọ tám mươi tuổi.

d. Phương hướng cầu thanh tĩnh, nhàn lạc theo tinh thần thuận tự nhiên phóng khoáng.

Triết lý vô vi thanh tĩnh của Lão Trang ảnh hưởng giới Nho sĩ rất nhiều, tạo cho con người xu hướng nhàn dật, ưa thích gần thiên nhiên, tìm cái thú nhàn lạc bên chén rượu cuộc cờ, tiêu dao với mây núi gió trăng ngón đàn, vần thơ, hay nét thư hoạ … Xu hướng này thích hợp khi con người không gặp thời, hoặc khi đã mỏi mệt vì đời phồn tạp. Vì thế, Nho sĩ Việt Nam thời xưa luôn luôn dự bị hành trang cho bản thân tư tưởng Lão Trang an nhàn xuất xứ. Gặp thời hay sung mãn khí huyết, được thi thố tài năng thì xuất, tham gia Triều Chính. Lúc mất ngủ, muốn thanh nhàn bất đắc chí, khi tuổi già hay chán quan trường thì tự rút lui chốn bụi trần xin về thiên nhiên, điền dã.

Đời Trần, Nguyễn Phi Khanh viết: Bách niên phủ thế nhân giai mộng, Bán nhật thâu nhàn ngã diệc Tiên.

(Cuộc đời nổi trôi trăm năm kiếp người như giấc mộng,

Ăn trộm được cái nhàn nửa ngày thì ta cũng là Tiên).

Đời Lê - Mạc, có Nguyễn Hãng, quê xã Xuân Lũng, phú Lâm Thao, trấn Sơn Tây, thi đậu Hương Cống nhưng không làm quan, về ẩn tu ở xã Đại Đồng, Phủ Yên Bình, tỉnh Tuyên Quang. Ông lấy hiệu Nại Hiên. Triều Lê (khi Trung Hưng) phong tặng là Thảo Mao Dật sĩ. Ông sáng tác những bài phú như Đại Đồng phong cảnh phú, Tam Ngung động phú, Tịch cư ninh thể phú … Những bài này ca ngợi thú ở ẩn non cao thanh tĩnh.

Thường thường khi bất đắc các Nho sĩ mới tìm về với Đạo giáo, điểm khác là Lê Thánh Tông chịu ảnh hưởng khía cạnh đã thoả mãn nhu cầu vượt lên câu thúc của Nho giáo để tự tại, phóng dật.

Khuynh hướng ảnh hưởng quan niệm sống hoà hợp với thiên nhiên, ca ngợi thanh tĩnh, nhàn lạc còn thấy được qua thú chơi cây kiểng và hòn non bộ đã phổ biến từ xưa. Người ta chơi một gốc cây sù sì, nho nhỏ, uốn cành sửa lá theo ý riêng, hoặc bày vài hòn đá con con, chông chênh trên một bể nước cạn. Thêm vào vài nhánh lá, chiếu cầu, con thuyền, lác đác một hai tượng sành tí xíu hình lão tiều, ông câu, hay đôi bạn đang đánh cờ… Đó là cả một thế giới tự nhiên riêng của con người đem thu nhỏ lại từ hình ảnh thật của thiên nhiên bao la. Chơi cây kiểng và hòn non bộ từ lâu đời vẫn được coi như thú tiêu khiển thanh tao, giúp con người di dưỡng tính tình, nó được xếp hạng không kém bốn thứ tài tử cầm, kỳ, thi, họa. Người hiểu đạo tự nhiên, khi đứng trước một cảnh thiên nhiên dù là nhân tạo chậu kiểng đẹp, một hòn non bộ khéo đắp, có thể dễ mê mẩn tâm hồn, đắm mình trong sức tưởng tượng phong phú, và quên cả thực tại phồn tạp bên ngoài, hoà vào thiên nhiên.

Đạo giáo kết hợp với thần đạo Việt Nam làm thành nét tín ngưỡng đặc sắc.

Từ lâu đời, người Việt có một đức tin sâu sắc vào sự trường cửu của anh linh những công thần, hào kiệt. Lúc sống, họ làm rường cột chống đỡ sơn hà xã tắc, cứu dân giúp nước, khi thác, trở thành Thần Thánh hiển tích, âm phù mặc trợ cho đồng bào. Thần đạo Việt Nam giản dị như vậy, và đó cũng là

một khía cạnh truyền thống yêu nước và lòng kính trọng nghìn đời của dân tộc đối với các vị tiên liệt anh hùng, những bậc kỳ tài của đất nước. Cái đình làng, tục thờ Thành Hoàng, Đền thờ hay Lăng, Miếu các danh tướng lương thần đều là nét tín ngưỡng Thần đạo của người Việt.

Đạo giáo cũng như đạo Phật đã khéo dung hợp, hòa nhập với những tín ngưỡng cổ truyền trong lòng xã hội Việt Nam. Trong lúc đất nước mất chủ quyền, chính tín ngưỡng thần đạo đã nuôi dưỡng ý thức quốc gia, khơi lòng yêu nước, để khi thời cơ đến thì gây phong trào khởi nghĩa, đánh đuổi ngoại xâm. Vua quan Trung Quốc đã nhiều phen thất bại khi tìm cách dập tắt tín ngưỡng bản địa này của người Việt để hòng duy trì ách xâm lược của phương Bắc suy đồi thất bại.

Trong toàn bộ lịch sử lâu dài vừa đấu tranh giữ nước vừa ra sức dựng nước, dân tộc Việt Nam đã chiến đấu bất khuất, không phải chỉ đối đầu với phương tiện vật chất hữu hình, mà còn có cả sức mạnh Thần thiêng vô hình nên dần dần bồi đắp đức tin mãnh liệt vào hồn thiêng sông núi, tin rằng có biết bao thế hệ anh linh tiền nhân dân tộc đang hậu thuẫn cùng đứng chung chiến tuyến với chính nghĩa của dân tộc để bảo vệ sự độc lập, thống nhất, trường tồn của Việt Nam.

Chính quan niệm đó của thần đạo Việt Nam cũng là lối thể hiện tư tưởng yêu nước Việt Nam. Người Việt Nam theo Đạo giáo nhưng vẫn không hề bị đồng hoá đánh mất bản sắc của mình. Do đó, trên điện thờ Thần bên cạnh các vị Thần Tiên của Đạo giáo theo kinh điển Trung Quốc truyền sang, dân Việt vẫn thờ chung các vị Thần bản địa của người Việt. Thí dụ, tại Thông Thánh quán ở vùng Bạch Hạc (Việt Trì) đã thờ Thần sông Tam Giang là vị phúc thần của địa phương. Thái Thanh cung Cung được dựng ở kinh thành Thăng Long bên trái, bên phải là chùa Vạn Tuế. Vua Lý Thái Tổ (1010-1028) cho cất Cung và Chùa này khi mới dời đô về Thăng Long. Trấn Vũ quán cũng được xây dựng lúc vua Lý Thái Tổ vừa dời đô về Thăng Long (1010), hiện nay nằm ở góc đường Quan Thánh và đường Thanh Niên, khu phố Ba Đình,

Xem tất cả 124 trang.

Ngày đăng: 18/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí