Mô Hình Nghiên Cứu Đối Với Rq2 Bằng Phương Pháp Phân Tích Hiệu Quả Biên


Trong đó, BEit là các chỉ tiêu đo lường hiệu quả của ngân hàngi tại thời điểm t được xác định bằng phương pháp chỉ số tài chính; FSt là biến độc lập đo lường thâm nhập của NHNNg tại thời điểm t; Bit là nhóm biến liên quan đến các đặc điểm của ngân hàng i tại thời điểm t; Mt là chỉ số kinh tế vĩ mô α, β, γ, δ là các hệ số hồi quy,

𝜇𝑖𝑡 là sai số của mô hình. Mô tả chi tiết các biến trong mô hình nghiên cứu được mô tả ở Bảng 3.2.


Bảng 3.2: Mô tả các biến trong mô hình 3.4

Biến

Định nghĩa

Hệ số

hồi quy

Dấu kỳ

vọng

ROA

Lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản



Nhóm biến đo lường thâm nhập của NHNNg

FBA

Tài sản của NHNNg trên tổng tài sản của toàn ngành

ngân hàng

β

β<0

NFB

Số lượng NHNNg trên tổng số ngân hàng của toàn

ngành ngân hàng

β

β<0

Nhóm biến liên quan đến các đặc điểm của ngân hàng



ETA

Vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản

γ1


LTA

Cho vay trên tổng tài sản

γ2


SIZE

Quy mô ngân hàng bằng logarit tổng tài sản

γ3


Biến chỉ số kinh tế vĩ mô



GDP

Tốc độ tăng trưởng GDP

δ


Nguồn: Tác giả tổng hợp.



Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.

Ảnh hưởng của thâm nhập ngân hàng nước ngoài đến cạnh tranh và hiệu quả của các NHTM Việt Nam - 12


Biến phụ thuộc trong mô hình 3.4


Như đã trình bày ở Mục 2.3.3.1 phương pháp chỉ số tài chính có 3 nhóm chỉ số là nhóm chỉ số phản ánh khả năng sinh lời, nhóm chỉ số phản ánh thu nhập và chi phí và nhóm chỉ số phản ánh chất lượng tài sản. Lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm trước đây cho thấy nhóm chỉ số phản ánh khả năng sinh lời và nhóm chỉ số phản ánh chi phí được hầu hết các nghiên cứu sử dụng. Hai chỉ số được lựa chọn


trong các nghiên cứu của 2 nhóm này là tỷ lệ lợi nhuận so với tổng tài sản và chi số chi phí ngoài lãi so với tổng tài sản thường được sử dụng.

Lý do chọn 2 chỉ số trên là vì các nghiên cứu thực nghiệm đã thực hiện xem xét tác động cạnh tranh và tác động lan tỏa lên hiệu quả của các ngân hàng trong nước theo 2 kênh riêng lẻ, mà không xem xét đến tác động tổng hợp. Manlagđit (2011) cho rằng nếu thâm nhập của NHNNg vừa tạo ra tác động cạnh tranh vừa tạo ra tác động lan tỏa sẽ làm giảm lợi nhuận và làm tăng chi phí hoạt động của ngân hàng trong nước. Tuy nhiên, về mặt lý thuyết NHNNg sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của ngân hàng trong nước qua 2 tác động là tác động cạnh tranh và tác động lan tỏa. Tác động cạnh tranh sẽ làm giảm hiệu quả, còn tác động lan tỏa sẽ làm tăng hiệu quả của ngân hàng trong nước, và tùy theo sự vượt trội của tác động cạnh tranh hay tác động lan tỏa mà NHNNg sẽ ảnh hưởng tiêu cực hay tích cực đến hiệu quả của ngân hàng trong nước (Levine, 1996).

Như vậy, nếu cho rằng trường hợp NHNNg vừa tạo ra tác động cạnh tranh vừa tạo ra tác động lan tỏa sẽ làm giảm lợi nhuận và làm tăng chi phí hoạt động của ngân hàng trong nước (Manlagđit, 2011) là không hợp lý. Trong trường hợp NHNNg tạo ra 2 tác động mà tác động lan tỏa vượt trội hơn tác động cạnh tranh thì lợi nhuận của ngân hàng trong nước vẫn tăng. Do đó, việc lựa chọn chỉ số hiệu quả nên dựa trên tác động tổng hợp của tác động cạnh tranh và tác động lan tỏa.

Từ lập luận trên, nghiên cứu này chỉ sử dụng một chỉ số đo hiệu quả phổ biến là tỷ lệ lợi nhuận so với tổng tài sản để xem xét tác động tổng hợp của thâm nhập NHNNg đến hiệu quả của các NHTM Việt Nam.

Nhóm biến đo lường thâm nhập của NHNNg


Trong giai đoạn nghiên cứu do NHNNg bị hạn chế trong việc mở chi nhánh, cũng như không có dữ liệu về quá trình thành lập hệ thống chi nhánh của các NHNNg nên phương pháp chỉ số tiếp xúc không thể áp dụng. Vì vậy, nghiên cứu này sử dụng phương pháp tổng hợp để đo lường thâm nhập của NHNNg.


Khi sử dụng phương pháp tổng hợp, các nghiên cứu thực nghiệm thường sử dụng tỷ lệ tài sản của NHNNg so với tổng tài sản của hệ thống ngân hàng và tỷ lệ số lượng NHNNg so với số lượng của hệ thống ngân hàng để đo lường thâm nhập của NHNNg (Barajas và cộng sự, 2000; Claessens và cộng sự, 2001; Claessens và Lee, 2003; Denizer, 2000; Lensink và Hermes, 2004; Manlagđit, 2011).

Kế thừa các nghiên cứu trước đây, nghiên cứu này đo lường thâm nhập của NHNNg tại Việt Nam bằng 2 biến là tỷ lệ tài sản NHNNg so với tổng tài sản của hệ thống ngân hàng và tỷ lệ số lượng NHNNg so với số lượng của hệ thống ngân hàng.

Nhóm biến liên quan đến các đặc điểm của ngân hàng


Khảo sát tài liệu nghiên cứu cho thấy có nhiều biến khác nhau được sử dụng để phản ánh đặc điểm của ngân hàng trong mô hình thực nghiệm. Claessens và cộng sự (2001) sử dụng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản, tiền gửi khách hàng trên tài sản và tỷ lệ tài sản không sinh lãi trên tài sản, tỷ lệ dự phòng nợ xấu trên tài sản. Các biến này cũng được sử dụng trong các nghiên cứu của Claessens và Lee (2003), Unite và Sullivan (2003), Lensink và Hermes (2004), Xu (2011) và Luo và cộng sự (2017). Trong khi đó, Shen và cộng sự (2009) sử dụng các biến như tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản, tài sản thanh khoản cao trên tài sản, cho vay trên tiền gửi khách hàng, tỷ lệ sở hữu vốn của nhà nước và qui mô của ngân hàng tính bằng logarit tổng tài sản ngân hàng. Manlagđit (2011) sử dụng 5 biến đại diện đặc điểm của ngân hàng là tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản, tiền gửi khách hàng trên tài sản, cho vay trên tài sản, chi phí dự phòng rủi ro tín dụng trên tài sản và thị phần của ngân hàng tính bằng tài sản của ngân hàng trên tài sản toàn ngành.

Trên cơ sở xem xét các biến liên quan đến đặc điểm ngân hàng trong các tài liệu nghiên cứu, nghiên cứu này chọn 3 biến là tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản, cho vay trên tài sản và qui mô ngân hàng là nhóm biến phản ánh đặc điểm ngân hàng trong mô hình nghiên cứu. Vốn chủ sở hữu có vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng, cung cấp nguồn lực ban đầu cho ngân hàng, là cơ sở tạo niềm tin cho khách hàng đến giao dịch với ngân hàng, là vốn đệm phòng ngừa rủi ro kinh doanh cho ngân hàng. Tỷ lệ cho vay trên tài sản phản ánh khả năng tạo ra thu


nhập lãi của ngân hàng. Quy mô ngân hàng thể hiện sức mạnh và tầm ảnh hưởng của ngân hàng trên thị trường.

Biến kinh tế vĩ mô


Biến kinh tế vĩ mô được nhiều nghiên cứu sử dụng là tốc độ tăng trưởng GDP (Barajas và cộng sự, 2000; Claessens và cộng sự, 2001; Claessens và Lee, 2003; Denizer, 2000; Lensink và Hermes, 2004; Luo và cộng sự, 2017; Manlagđit, 2011; Xu, 2011). Nghiên cứu này cũng sử dụng tốc độ tăng trưởng GDP là biến đại diện cho yếu tố kinh tế vĩ mô trong mô hình nghiên cứu.


3.2.2. Mô hình nghiên cứu đối với RQ2 bằng phương pháp phân tích hiệu quả biên

3.2.2.1. Lựa chọn phương pháp phân tích hiệu quả biên trong luận án


Như đã trình bày trong Mục 2.3.3.2, Chương 2 phương pháp phân tích hiệu quả biên gồm có phương pháp tham số và phương pháp phi tham số. Vấn đề sử dụng phương pháp tham số hay phi tham số trong việc đo lường hiệu quả để cho kết quả tốt nhất vẫn còn nhiều tranh luận. Khảo sát của Berger (1993) cho rằng phương pháp tham số là phương pháp cho kết quả tốt nhất, trong khi Thrall (1999) lại cho rằng phương pháp phi tham số cho kết quả tốt hơn phương pháp tham số.

Phương pháp phân tích hiệu quả biên tham số yêu cầu phải chỉ định dạng hàm phù hợp với hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nếu chỉ định dạng hàm sai sẽ dẫn đến kết đo lường không chính xác. Vì các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng rất đa dạng và phức tạp, nên việc xây dựng hàm sản xuất mô phỏng hoạt động của các ngân hàng là hết sức khó khăn. Do đó, luận án này sử dụng phương pháp phi tham số DEA để đo lường hiệu quả NHTM Việt Nam.

3.2.2.2. Xác định mô hình cho phương pháp DEA


Lựa chọn mô hình tối thiểu hóa đầu vào hoặc tối đa hóa đầu ra


Nghiên cứu của Sathye (2003) cho thấy mô hình tối đa hóa đầu ra không thích hợp cho việc đo lường hiệu quả của ngành ngân hàng ở các nước đang trong thời kỳ


cải cách mở cửa, chẳng hạn như trường hợp của Việt Nam. Quá trình cải cách và mở cửa thị trường ngân hàng sẽ dẫn đến sự thâm nhập của NHNNg ngày càng gia tăng. Sự xuất hiện của NHNNg với tư cách là những đối thủ cạnh tranh có công nghệ hiện đại, kỹ năng quản lý tiên tiến sẽ thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường ngân hàng trong nước. Trước sức ép từ các NHNNg, các ngân hàng trong nước buộc phải kiểm soát chi phí đầu vào tốt hơn để bù đắp một phần lợi nhuận bị suy giảm do cạnh tranh.

Ngoài ra, thông qua hoạt động của NHNNg, ngân hàng trong nước sẽ dần học hỏi được kinh nghiệm quản lý, do đó, các nguồn lực đầu vào sẽ được sử dụng hiệu quả hơn. Hơn nữa, một số nghiên cứu đo lường hiệu quả cho rằng trong quản lý, các ngân hàng thường tập trung kiểm soát chi phí đầu vào hơn là chú trọng gia tăng sản lượng đầu ra (Berger, 2007; Drake và cộng sự, 2006; Elyasiani và Mehdian, 1990; Goddard và cộng sự, 2001). Vì vậy, mô hình tối thiểu hóa đầu vào là mô hình thích hợp cho nghiên cứu này.

Lựa chọn mô hình CRS và VRS


Phương pháp DEA được sử dụng rất phổ biến trong các nghiên cứu thực nghiệm về đo lường hiệu quả. Tuy vậy, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về việc lựa chọn giữa mô hình CRS và VRS. Một số nghiên cứu gần đây ủng hộ việc sử dụng mô hình VRS, vì nó phù hợp với thực tiễn là các ngân hàng không thể cùng hoạt động ở quy mô tối ưu do cạnh tranh không hoàn hảo, bị giới hạn về tài chính cũng như các ràng buộc về mặt pháp lý (McAllister và McManus, 1993; Sufian, 2009; Wheelock và Wilson, 1999). Hơn nữa, đường biên của VRS linh hoạt hơn CRS, nó cho phép xác định điểm hiệu quả của kết quả đầu ra so với đầu vào thay đổi theo quy mô của các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu (Halkos và Tzeremes, 2009).

Trong trường hợp Việt Nam, mô hình VRS là mô hình thích hợp vì những ràng buộc về pháp lý, giới hạn tài chính và thị trường cạnh tranh không hoàn hảo nên các ngân hàng sẽ không hoạt động ở cùng quy mô tối ưu.


Lựa chọn các biến đầu vào, đầu ra trong mô hình DEA


Phương pháp DEA yêu cầu xây dựng mô hình với các biến đầu vào và đầu ra cho phù hợp với đặc điểm kinh doanh của các NHTM. Lược khảo một số nghiên cứu ở các nước đang phát triển và nền kinh tế chuyển đổi, cũng như ở Việt Nam về phân tích hiệu quả của các NHTM sử dụng phương pháp DEA trong Bảng 3.3 cho thấy có 3 cách tiếp cận thường được sử dụng để lựa chọn các biến đầu vào và đầu ra trong mô hình DEA là: phương pháp tiếp cận sản xuất, phương pháp tiếp cận trung gian, và phương pháp cách tiếp cận chi phí.


Bảng 3.3: Tổng hợp các nghiên cứu hiệu quả ngân hàng bằng DEA

Tác giả

Dữ liệu

Đầu vào

Đầu ra

Ayadi và

cộng sự (1998)

10 ngân hàng Nigeria giai đoạn

1991-1994

Tổng chi phí, chi phí lãi và

tiền gửi

Cho vay, thu nhập từ lãi và thu ngoài

lãi


Sathye (2003)

94 ngân hàng Ấn Độ giai đoạn 1997-1998

Chi phí lãi, chi phí ngoài lãi, tiền gửi và số

nhân viên

Thu lãi thuần, thu ngoài lãi, cho vay thuần và thu ngoài

lãi

Havrylchyk (2006)

Ngân hàng Ba Lan giai đoạn 1997-

2001

Vốn chủ sở hữu,

số nhân viên và tiền gửi

Cho vay, trái phiếu

chính phủ, khoản mục ngoại bảng

Grigorian và Manole (2006)

Ngân hàng tại 17 nền kinh tế chuyển đổi giai đoạn

1995-1998

Vốn huy động, vốn chủ sở hữu, số nhân viên

Cho vay và đầu tư chứng khoán


Nguyễn Việt Hùng (2008)

32 ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2000-2005

Chi phí nhân viên, tài sản cố

định ròng, tiền gửi

Thu nhập lãi ròng và thu nhập ngoài lãi

Nguyễn

Minh Sáng (2014)

Ngân hàng Việt

Nam giai đoạn 1992-2013

Chi phí nhân

viên, tài sản cố định và tiền gửi

Thu nhập từ lãi và thu nhập ngoài lãi

Fernandes và cộng sự (2018)

Ngân hàng tại 5 nước Châu Âu giai đoạn 1995-1998

Chi phí lãi, chi phí ngoài lãi

Tổng thu nhập

Zhu và cộng sự (2019)

49 Ngân hàng

Trung Quốc giai đoạn 2004-2012

Chi phí lãi, chi

phí ngoài lãi, tỷ lệ an toàn vốn

Thu nhập lãi, thu

nhập ngoài lãi, nợ xấu

Nguồn: Tác giả tổng hợp.




Phương pháp tiếp cận sản xuất xem NHTM như đơn vị cung cấp dịch vụ sử dụng các đầu vào là lao động và vốn để sản xuất đầu ra là số lượng tài khoản tiền gửi và tiền vay. Trong khi đó, phương pháp tiếp cận trung gian xem NHTM đóng vai trò như là một định chế tài chính trung gian giữa người gửi tiền và người đi vay, theo đó, ngân hàng sử dụng vốn huy động từ tiền gửi khách hàng và các khoản mà ngân hàng vay trên thị trường tài chính là đầu vào, và đầu ra là cho vay và các tài sản sinh lãi khác. Phương pháp tiếp cận chi phí chú trọng vào việc phân tích đóng góp thuần của các khoản mục tài sản hoặc nợ vào doanh thu của NHTM để phân loại biến đầu vào và đầu ra.

Để thống nhất với các biến đầu vào và đầu ra trong mô hình Panzar – Rosse, nghiên cứu này áp dụng cách tiếp cận trung gian xem NHTM là một định chế tài chính trung gian sử dụng các đầu vào là chi phí lãi đại diện cho vốn huy động (I1), chi phí nhân viên (I2), chi phí ngoài lãi đại diện cho vốn vật chất (I3) để tạo các đầu ra là thu nhập lãi (Y1) và thu nhập ngoài lãi (Y2). Mô tả chi tiết các biến trong mô hình DEA ở Bảng 3.4.


Bảng 3.4: Mô tả các biến trong mô hình DEA

Biến

Định ngĩa

Biến đầu ra

Y1

Thu nhập lãi

Y2

Thu nhập ngoài lãi

Biến đầu vào

I1

Chi phí lãi

I2

Chi phí nhân viên

I3

Chi phí khác

Nguồn: Tác giả tổng hợp.

Tóm lại, trong luận án này, phương pháp DEA được sử dụng với mô hình tối thiểu hóa đầu vào và giả định hiệu quả thay đổi theo quy mô để ước lượng hiệu quả kỹ thuật của các NHTM Việt Nam. Các biến đầu vào và đầu ra trong mô hình DEA được lựa chọn theo cách tiếp cận trung gian, theo đó, 3 biến đầu vào là chi phí lãi đại


diện cho vốn huy động (I1), chi phí nhân viên (I2), chi phí khác đại diện cho vốn vật chất (I3) để tạo 2 biến đầu ra là thu nhập từ lãi (Y1) và thu ngoài lãi (Y2). Việc xác định hiệu quả của các NHTM bằng phương pháp DEA được xử lý bằng phần mềm STATA do Lee và Yong-Bae (2010) phát triển.

3.2.2.3. Mô hình nghiên cứu đối với RQ2 bằng phương pháp DEA


Mô hình nghiên cứu đối với RQ2 bằng phương pháp DEA được xây dựng trên cơ sở điều chỉnh Mô hình 3.4. Biến phụ thuộc trong Mô hình 3.4 là chỉ số hiệu quả được xác định bằng phương pháp chỉ số tài chính được thay bằng độ đo hiệu quả kỹ thuật được xác định bằng phương pháp DEA. Hơn nữa, theo Chen (2009) các nhóm yếu tố chính tác động đến hiệu của ngân hàng xác định bằng phương pháp DEA bao gồm nhóm các yếu tố về đặc điểm của ngân hàng, và môi trường kinh tế vĩ mô. Như vậy, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của NHTM được xác định bằng phương pháp DEA tương tự như các nhóm yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của NHTM được xác định bằng phương pháp tài chính.

Bên cạnh đó, một số nghiên cứu phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của NHTM được xác định bằng phương pháp DEA cũng cho thấy các yếu tố liên quan đến đặc điểm ngân hàng như tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản, cho vay trên tài sản, quy mô ngân hàng, tốc độ tăng trưởng GDP có ảnh hưởng đến hiệu quả ngân hàng (Ariff và Luc, 2008; Casu và Molyneux, 2003; Girardone và cộng sự, 2004; Salas và Saurina, 2003).

Do độ đo hiệu quả kỹ thuật được xác định bằng phương pháp DEA là biến bị chặn có giá trị trong khoảng từ 0 đến 1. Theo Gujarati (2004) khi biến phụ thuộc bị chặn thì hồi quy Tobit là mô hình phù hợp nhất được lựa chọn trong nghiên cứu.

Mô hình hồi quy Tobit được xây dựng để ước lượng mối quan hệ tuyến tính giữa các biến giải thích khi biến phụ thuộc bị chặn do Tobin (1958) đề xuất. Dựa trên mô hình Tobit chuẩn hóa cho dữ liệu chéo của Tobin (1958), nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã triển khai mô hình này cho dữ liệu bảng để phân tích các yếu tố ảnh hưởng

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/03/2023