Biến | Định nghĩa | Hệ số hồi quy | Dấu kỳ vọng |
Rit | Thu lãi và thu ngoài lãi của ngân hàngi tại thời điểm t | ||
Nhóm biến liên quan đến các yếu tố đầu vào của ngân hàng | |||
w1it | Tỷ lệ chi phí lãi trên tổng vốn huy động ngân hàng i tại thời điểm t | β1 | |
w2it | Tỷ lệ chi phí nhân viên trên tổng tài sản ngân hàng i tại thời điểm t | β2 | |
w3it | Tỷ lệ chi phí khác trên tổng tài sản ngân hàng i tại thời điểm t | β3 | |
Nhóm biến liên quan đến các đặc điểm của ngân hàng | |||
LOit | Tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tài sản ngân hàng i tại thời điểm t | γ1 | |
ASit | Tổng tài sản ngân hàng i tại thời điểm t | γ2 | |
D | Biến giả bằng 1 nếu là NHNNg, bằng 0 nếu là ngân hàng trong nước | ||
Nhóm biến tương tác | |||
w1it*D | Biến tương tác giữa tỷ lệ chi phí lãi trên tổng vốn huy động của ngân hàng i tại thời điểm t với biến giả D | β4 | |
w2it*D | Biến tương tác giữa tỷ lệ chi phí nhân viên trên tổng tài sản của ngân hàng i tại thời điểm t với biến giả D | β5 | (β4 + β5 + β6) > 0 |
w3it*D | Biến tương tác giữa tỷ lệ chi phí khác trên tổng tài sản của ngân hàng i tại thời điểm t với biến giả D | β6 | |
LOit*D | Biến tương tác giữa tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tài của ngân hàng i tại thời điểm t với biến giả D | γ3 | |
ASit*D | Biến tương tác giữa tổng tài sản của ngân hàng i tại thời điểm t với biến giả D | γ4 | |
Nguồn: Tác giả tổng hợp. |
Có thể bạn quan tâm!
- Phương Pháp Đo Lường Hiệu Quả Của Ngân Hàng Thương Mại
- Lý Thuyết Về Ảnh Hưởng Của Thâm Nhập Ngân Hàng Nước Ngoài Đến Hiệu Quả Của Các Ngân Hàng Trong Nước
- Mô Hình Nghiên Cứu Thực Nghiệm Đối Với Rq1
- Mô Hình Nghiên Cứu Đối Với Rq2 Bằng Phương Pháp Phân Tích Hiệu Quả Biên
- Kiểm Định Các Giả Định Của Mô Hình Hồi Quy Dữ Liệu Bảng
- Số Ngân Hàng Trong Mẫu Nghiên Cứu Giai Đoạn 2009 – 2019
Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.
Biến doanh thu trong mô hình Panzar – Rosse
Mộ số nghiên cứu sử dụng biến doanh thu như là biến giá đầu ra của ngân hàng hay biến doanh thu có định tỷ lệ bằng cách chia doanh thu cho tổng tài sản - doanh thu trên mỗi đơn vị tài sản (Bikker và Haaf, 2002; Molyneux và cộng sự, 1994). Tuy nhiên, theo Bikker và cộng sự (2012) việc sử dụng biến giá đầu ra hay biến doanh thu có định tỷ lệ là cách xác định sai vì sẽ không phân biệt được thị trường cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo (đặc biệt là trường hợp cạnh tranh độc quyền) do H-Statistic lúc này đều lớn hơn 0 kể cả trong trường hợp thị trường độc quyền.
Bikker và cộng sự (2012) cho rằng khi biến phụ thuộc là giá bán hay doanh thu có định tỷ lệ thì mô hình nghiên cứu thể hiện mối quan hệ giữa giá bán và giá chi phí đầu vào (trong khi mô hình Panzar – Rosse thể hiện mối quan hệ giữa doanh thu và giá chi phí đầu vào). Trong thị trường độc quyền, giá cả độc quyền là hàm tăng
theo chi phí biên ( ∂P
∂MC
>0), nghĩa là H-Statistic > 0 (theo mô hình Panzar – Rosse thì
H-Statistic trong trường hợp thị trường độc quyền phải nhỏ hơn 0).
Do vậy, nghiên cứu này sử dụng biến phụ thuộc là biến doanh thu không định tỷ lệ dựa trên khuyến nghị của Gelos và Roldos (2004) và Bikker và cộng sự (2012) trong mô hình nghiên cứu.
Biến đầu vào trong mô hình Panzar – Rosse
Để xác định biến giá các yếu tố đầu vào, nghiên cứu lược khảo các công trình nghiên cứu có sử dụng mô hình Panzar – Rosse đo lường cạnh tranh trong ngành ngân hàng.
Molyneux và cộng sự (1994) sử dụng mô hình Panzar – Rosse để kiểm tra điều kiện cạnh tranh của ngành ngân hàng ở các nước Châu Âu giai đoạn 1986 – 1989. Nghiên cứu sử dụng các biến đầu vào của mô hình Panzar – Rosse là tỷ lệ chi phí lãi trên tổng vốn huy động đại diện cho giá đầu vào của vốn huy động, tỷ lệ chi phí nhân viên trên tổng tài sản đại diện cho giá đầu vào của nhân viên, tỷ lệ chi phí khác trên tài sản đại diện cho giá đầu vào của vốn vật chất.
Bikker và Haaf (2002) sử dụng mô hình Panzar – Rosse với các biến đầu vào tương tự Molyneux và cộng sự (1994) để kiểm tra mối quan quan hệ giữa cạnh tranh và tập trung trong ngành ngân hàng tại 23 quốc gia công nghiệp phát triển.
Claessens và Laeven (2004) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến cạnh tranh ngân hàng tại 50 quốc gia giai đoạn 1994 – 2001. Nghiên cứu sử dụng mô hình Panzar
– Rosse với các biến đầu vào tương tự Molyneux và cộng sự (1994).
Jeon và cộng sự (2011) sử dụng mô hình Panzar – Rosse nghiên cứu tác động của thâm nhập NHNNg đến cạnh tranh của thị trường ngân hàng 17 nền kinh tế mới nổi tại châu Á và Mỹ Latinh giai đoạn 1997 – 2008. Nghiên cứu sử dụng các biến đầu vào của mô hình Panzar – Rosse tương tự Molyneux và cộng sự (1994).
Bikker và cộng sự (2012) cũng sử dụng mô hình Panzar – Rosse với các biến đầu vào tương tự Molyneux và cộng sự (1994) để xem xét các vấn đề cân bằng thị trường, biến tỷ lệ, chi phí khi sử dụng mô hình Panzar – Rosse với mẫu dữ liệu ngân hàng tại 67 quốc gia giai đoạn 1986 – 2004.
Liu và cộng sự (2012) sử dụng mô hình Panzar – Rosse nghiên cứu cạnh tranh và rủi ro trong ngành ngân hàng ở các nước Đông Nam Á giai đoạn 1998 – 2008. Nghiên cứu sử dụng các biến đầu vào trong mô hình Panzar – Rosse tương tự Molyneux và cộng sự (1994).
Mulyaningsih và cộng sự (2015) kiểm tra ảnh hưởng của thâm nhập NHNNg đến mức độ cạnh tranh của thị trường ngân hàng Indonesia giai đoạn 1980 – 2010 bằng mô hình Panzar – Rosse hiệu chỉnh do Bikker và cộng sự (2012) phát triển. Các biến đầu vào của mô hình Panzar – Rosse trong nghiên cứu này tương tự Molyneux và cộng sự (1994).
Tahir và cộng sự (2016) nghiên cứu bản chất cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng của Pakistan bằng mô hình Panzar – Rosse giai đoạn 2007 – 2015. Nghiên cứu sử dụng các biến đầu vào trong mô hình Panzar – Rosse tương tự Molyneux và cộng sự (1994).
Fuior và Bejenar (2018) sử dụng mô hình Panzar – Rosse với các biến đầu vào tương tự Molyneux và cộng sự (1994) để đánh giá cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng Moldoval giai đoạn 2012 – 2016.
Qua lược khảo các nghiên cứu sử dụng mô hình Panzar – Rosse đo lường cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng cho thấy các nghiên cứu đều sử dụng 3 biến đầu vào là giá đầu vào của vốn huy động, giá đầu vào của nhân viên, giá đầu vào của vốn vật chất trong mô hình Panzar – Rosse.
Kế thừa các nghiên cứu trước đây, luận án này cũng sử dụng 3 biến đầu vào là tỷ lệ chi phí lãi trên tổng vốn huy động đại diện cho giá đầu vào của vốn huy động, tỷ lệ chi phí nhân viên trên tổng tài sản đại diện cho giá đầu vào của nhân viên, tỷ lệ chi phí khác trên tài sản đại diện cho giá đầu vào của vốn vật chất trong mô hình Panzar – Rosse.
Các biến giải thích khác của mô hình Panzar – Rosse
Theo Bikker và cộng sự (2012) thay vì chia doanh thu cho tổng tài sản, biến tổng tài sản (AS) sẽ được đưa vào làm biến kiểm soát trong mô hình nghiên cứu. Ngoài ra, các nghiên cứu còn đưa biến giải thích liên quan đến đặc điểm của ngân hàng là tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, tỷ lệ dư nợ trên tài sản, tỷ lệ vốn huy động trên tài sản (Bikker và cộng sự, 2012; Claessens và Laeven, 2004; Liu và cộng sự, 2012; Mulyaningsih và cộng sự, 2015). Nghiên cứu này sử dụng biến tỷ lệ dư nợ trên tài sản (LO) làm biến đại diện cho đặc điểm hoạt động của ngân hàng, vì thu nhập lãi của các ngân hàng Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập, do vậy, biến tỷ lệ dư nợ trên tài sản sẽ ảnh hưởng đến biến phụ thuộc là biến doanh thu trong mô hình.
Kiểm định tính cân bằng dài hạn của thị trường ngân hàng
Để giá trị H-Statistic phản ánh đúng mức độ cạnh tranh của thị trường thì cần phải thực hiện kiểm định tính cân bằng dài hạn trước khi sử dụng mô hình Panzar - Rosse. Kiểm định cân bằng dài hạn như sau:
Giả định để H-Statistic(0,1) là thị trường ngân hàng hoạt động trong trạng thái cân bằng dài hạn (Panzar và Rosse, 1987; Shaffer, 1982). Nếu thị trường không điều chỉnh đến trạng thái cân bằng dài hạn thì việc ước tính hệ số H-Statistic sẽ không chính xác.
Shaffer (1982) đề xuất một phương pháp kiểm định cân bằng dài hạn thông qua việc thay biến phụ thuộc trong phương trình (3.1) bằng biến ROA, cụ thể như sau:
n m
LnROAit jlnwjit k lnBSFkit it
(3.3)
j 1 k 1
Biến ROA1 trong Mô hình 3.3 là lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản. Trong thị trường cân bằng dài hạn, thu nhập của ngân hàng không phụ thuộc vào sự thay đổi giá các yếu tố đầu vào (Shaffer, 1982), chính vì vậy, hệ số E-Statistic = (β1 + β2
+ β3) = 0. Trong đó, các hệ số β1, β2, β3 là hệ số hồi quy của 3 biến đầu vào ln(w1), ln(w2) và ln(w3). Kiểm định cân bằng dài hạn được thực hiện bằng kiểm định F với giả thuyết gốc E-Statistic = 0. Nếu giả thuyết E-Statistic = 0 được chấp nhận thì thị trường ngân hàng đạt cân bằng dài hạn, và việc áp dụng mô hình Panzar – Rosse để đo lường mức độ cạnh tranh sẽ cho giá trị H-Statistic đáng tin cậy.
3.1.2. Tiêu chuẩn xác định ngân hàng nước ngoài
Trong mô hình nghiên cứu thực nghiệm trình bày ở Mục 3.1.1, biến tương tác được xác định theo tính chất sở hữu là ngân hàng trong nước và NHNNg. Do đó, cần phải có tiêu chuẩn để xác định NHNNg. Claessens và cộng sự (2001) định nghĩa NHNNg là những ngân hàng có tỷ lệ sở hữu vốn của đối tác nước ngoài từ 50% trở lên, và Yeyati và Micco (2007) cũng cho rằng NHNNg là những ngân hàng có tỷ lệ sở hữu vốn của đối tác nước ngoài tối thiểu từ 50% trở lên. Một số nghiên cứu thực nghiệm khác cũng cho rằng tiêu chuẩn để xác định NHNNg là tỷ lệ sở hữu của đối
1 ROA có thể là số âm, do đó cần phải hiệu chỉnh biến ROA = ln(ROA + 100), ROA được tính bằng % (Liu và cộng sự, 2012).
tác nước ngoài từ 50% trở lên (Jeon và cộng sự, 2011; Mulyaningsih và cộng sự, 2015).
Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam không đưa ra tiêu chí xác định NHNNg mà chỉ đề cập đến các hình thức thâm nhập của NHNNg. Theo đó, các tổ chức tín dụng nước ngoài được hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới hình thức văn phòng đại diện, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Trong ngân hàng liên doanh, bên nước ngoài được góp vốn tối đa đến 50% vốn điều lệ.
Về mặt pháp lý, với tỷ lệ sở hữu vốn từ 50% trở lên, bên nước ngoài có quyền chi phối và kiểm soát đối với hoạt động của ngân hàng. Như vậy, ngân hàng có mức sở hữu vốn của bên nước ngoài từ 50% trở lên có thể xem là NHNNg. Trong luận án này, ngân hàng liên doanh có tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài từ 50% trở lên, ngân hàng 100% vốn nước ngoài và chi nhánh NHNNg được xác định là NHNNg.
3.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỐI VỚI RQ2
Trên cơ sở khe hở nghiên cứu ở Mục 2.5.2, nghiên cứu này sử dụng phương pháp chỉ số tài chính và phương pháp phân tích hiệu quả biên để phân tích ảnh hưởng của thâm nhập NHNNg đến hiệu quả của các NHTM Việt Nam. Quy trình phân tích được thực hiện theo 2 bước: Trong bước 1 nghiên cứu tiến hành đo lường hiệu quả của các NHTM trong nước; ở bước 2, hiệu quả của các NHTM trong nước được hồi quy với biến đo lường thâm nhập của NHNNg.
3.2.1. Mô hình nghiên cứu đối với RQ2 bằng phương pháp chỉ số tài chính
Để xác định mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của thâm nhập NHNNg đến hiệu quả của các NHTM Việt Nam, luận án tiến hành lược khảo các công trình nghiên cứu có liên quan.
Barajas và cộng sự (2000) sử dụng mô hình hồi quy dữ liệu bảng để nghiên cứu tác động của thâm nhập NHNNg đến hiệu quả của ngân hàng Colombia. Nghiên cứu sử dụng biến phụ thuộc là chỉ số hiệu quả ngân hàng như thu nhập lãi cận biên,
tỷ lệ nợ xấu so với tổng tài sản, và tỷ lệ chi phí ngoài lãi trên tổng tài sản. Các biến độc lập bao gồm nhóm biến đo lường thâm nhập của NHNNg là tỷ lệ số lượng NHNNg so với tổng số ngân hàng và tỷ lệ tài sản NHNNg so với tổng tài sản toàn hệ thống ngân hàng; nhóm biến liên quan đến đặc điểm ngân hàng: như tỷ lệ vốn chủ sở hữu so với tổng tài sản, tỷ lệ tiền gửi so với tổng tài sản; nhóm biến liên quan đến kinh tế vĩ mô gồm có biến tốc độ tăng trưởng GDP và biến lạm phát.
Denizer (2000) nghiên cứu tác động của thâm nhập NHNNg đến hiệu quả của ngân hàng Thổ Nhĩ Kỳ sử dụng mô hình hồi quy dữ liệu bảng. Nghiên cứu sử dụng biến phụ thuộc là tỷ lệ lợi nhuận trước thuế so với tổng tài sản, tỷ lệ chi phí ngoài lãi trên tổng tài sản và thu nhập lãi cận biên. Các biến độc lập trong mô hình tương tự Barajas và cộng sự (2000).
Unite và Sullivan (2003) sử dụng dạng mô hình tương tự Denizer (2000) để nghiên cứu ảnh hưởng của thâm nhập NHNNg đến hiệu quả của các ngân hàng Philippine. Ngoài các biến đo lường thâm nhập của NHNNg như các nghiên cứu nêu trên, nghiên cứu này thêm biến tỷ lệ sở hữu cổ phần của đối tác nước ngoài tại các ngân hàng trong nước để đo lường thâm nhập của NHNNg. Shen và cộng sự (2009) cũng sử dụng mô hình với các biến tương tự Unite và Sullivan (2003) để nghiên cứu ảnh hưởng của thâm nhập NHNNg đến hiệu quả của các ngân hàng Trung Quốc.
Manlagđit (2011) sử dụng mô hình hồi quy dữ liệu bảng để nghiên cứu ảnh hưởng của thâm nhập NHNNg đến các ngân hàng Philippine. Các biến phụ thuộc gồm 2 chỉ số hiệu quả là là tỷ lệ lợi nhuận trước thuế so với tổng tài sản, tỷ lệ chi phí ngoài lãi trên tổng tài sản. Các biến độc lập trong mô hình tương tự như Denizer (2000).
Xu (2011) và Luo và cộng sự (2017) sử dụng mô hình với biến đo lường thâm nhập của NHNNg là chỉ số tiếp xúc và chỉ số tổng hợp để nghiên cứu ảnh hưởng của thâm nhập NHNNg đến hiệu quả của các ngân hàng Trung Quốc. Các nghiên cứu này tập trung vào việc xây dựng phương pháp chỉ số tiếp xúc để đo lường thâm nhập của NHNNg, và so sánh kết quả nghiên cứu của phương pháp tổng hợp và phương pháp chỉ số tiếp xúc. Các biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu của Xu (2011) là thu
nhập lãi cận biên, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi so với tổng tài sản, và tỷ lệ chi phí ngoài lãi so với tổng tài sản. Các biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu của Luo và cộng sự (2017) là tỷ lệ lợi nhuận trước thuế so với tổng tài sản, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi so với tổng tài sản, và tỷ lệ chi phí ngoài lãi so với thu nhập ngoài lãi. Các biến độc lập bao gồm nhóm biến đo lường thâm nhập của NHNNg theo 2 phương pháp là phương pháp chỉ số tiếp xúc và phương pháp tổng hợp, nhóm biến liên quan đến đặc điểm ngân hàng và biến về kinh tế vĩ mô tương tự nghiên cứu Denizer (2000).
Các nghiên cứu ở các quốc gia và khu vực Claessens và cộng sự (2001), Claessens và Lee (2003), Lensink và Hermes (2004) cũng sử dụng mô hình tương tự như Denizer (2000).
Các nghiên cứu tại Việt Nam của Lien và cộng sự (2015) và Pham và Nguyen (2020) cũng sử dụng mô hình tương tự Denizer (2000). Các biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu của 2 nghiên cứu này là các chỉ số hiệu quả như tỷ lệ lợi nhuận trước thuế so với tổng tài sản, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi so với tổng tài sản, thu nhập lãi cận biên và tỷ lệ chi phí ngoài lãi trên tổng tài sản. Các biến độc lập trong 2 nghiên cứu này tương tự Denizer (2000) gồm nhóm biến đo lường thâm nhập của NHNNg theo phương pháp tổng hợp, nhóm biến phản ánh đặc điểm hoạt động của ngân hàng và biến kinh tế vĩ mô.
Qua lược khảo các nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan cho thấy mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của thâm nhập NHNNg đến hiệu quả của các ngân hàng trong nước có biến phụ thuộc là chỉ số hiệu quả của các ngân hàng trong nước, biến độc lập bao gồm nhóm biến đo lường thâm nhập của NHNNg, nhóm biến phản ánh đặc điểm hoạt động của ngân hàng và biến kinh tế vĩ mô. Kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đây (Denizer, 2000; Manlagđit, 2011; Lien và cộng sự, 2015; Pham và Nguyen, 2020), để phân tích ảnh hưởng của thâm nhập NHNNg đến hiệu quả của các NHTM Việt Nam, nghiên cứu sử dụng mô hình như sau:
BEit FSt Bit Mt it
(3.4)