Quản Lý Rủi Ro Htttkt Trong Môi Trường Máy Tính


2015). Saffold (1988) cho rằng văn hoá tổ chức thẩm thấu vào đời sống của tổ chức theo cách ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của tổ chức.

Người ta cho rằng văn hoá ảnh hưởng đến kết quả như năng suất, hiệu suất, cam kết, sự tự tin và hành vi đạo đức (Denison, 1984; Posner và cs, 1985). Văn hoá tổ chức giữ vị trí rất đáng kể trong việc tạo dựng hành vi quản lý vì nó là nền tảng của môi trường nội bộ tổ chức (Griffin và Moorhead, 2012).

Zhang và cs (2002) giải thích văn hóa tổ chức gắn liền với văn hóa quốc gia, nên hai khía cạnh về văn hóa tổ chức được xác định là có liên quan đến thành công khi vận hành ERP: (1) Mức độ xung đột của văn hóa được thể hiện qua văn

hóa tổ

chức của khách hàng trong ERP và (2) Mức độ

của chủ

nghĩa tập thể

trong văn hóa tổ

chức. Zhang và cs (2002) trích dẫn từ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 405 trang tài liệu này.

Krumbholz và Maiden

(2001) cho rằng sự xung đột giữa văn hóa trong ERP và văn hóa tổ chức hiện tại ảnh hưởng đến thành công trong vận hành ERP. Các tổ chức phương Tây khi đưa ra quyết định đều lệ thuộc nhiều vào thông tin. Trong khi ở Trung Quốc, việc quản lý không dựa vào thông tin nhiều mặc dù HTTT đã được triển khai. Họ sẽ dựa nhiều hơn vào các phép ngoại suy từ kinh nghiệm và trực giác. Các quyết định chính thường do lãnh đạo cao nhất đưa ra, điều này sẽ làm giảm nhu cầu truyền thông qua lại giữa các nhà quản lý. Do đó, ban lãnh đạo càng ít có xu hướng dựa vào thông tin có hệ thống từ đầu ra của hệ thống ERP sẽ gây khó khăn cho bên liên quan có thể bị tác động tiêu cực bởi hành vi từ lãnh đạo của họ. Đây có thể chính là lý do giải thích vì sao có nhiều thất bại trong vận hành ERP ở Trung Quốc hơn các nước phương Tây.

Môi trường nội bộ, hoặc văn hóa công ty, ảnh hưởng đến cách tổ chức thiết lập chiến lược và mục tiêu; cấu trúc hoạt động kinh doanh; và xác định, đánh giá và đối chọi với rủi ro. Môi trường nội bộ yếu kém hoặc không hiệu quả thường dẫn đến sự đổ vỡ trong kiểm soát và quản lý rủi ro. Các tiêu chuẩn nguồn nhân lực cần thu hút, tạo động lực phát triển và giữ người có năng lực. Các tổ chức cần một nền văn hóa nhấn mạnh tính chính trực và cam kết với các giá trị đạo


đức và năng lực. Ngoài ra, triết lý và phong cách điều hành của ban quản lý càng thể hiện trách nhiệm và chúng càng được truyền đạt rõ ràng, thì nhân viên càng có nhiều khả năng hành xử có trách nhiệm. Nếu ban quản lý ít quan tâm đến KSNB và quản lý rủi ro, thì nhân viên sẽ ít siêng năng hơn để đạt được các mục tiêu kiểm soát (Romney và Steinbart, 2018).

Napitupulu (2015) trong trích dẫn McShane và Glinow (2010), xác nhận việc

xây dựng và vận hành HTTT trong DN bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi văn hóa tổ chức. Văn hoá tổ chức được thể hiện qua các đặc tính: chú ý đến chi tiết, đổi mới, định hướng nhóm, định hướng kết quả, định hướng con người, sự ổn định

và sự nhiệt huyết. Wongsim (2013) giải thích thêm rằng việc thiếu hoạt động

làm việc đội nhóm và truyền thông giữa các bộ phận sẽlà rủi ro tiềm tàng ảnh hưởng đến các vấn đề thực thi HTTTKT.

Trong NC này, rủi ro văn hoá tổ chức là rủi ro liên quan đến văn hoá DN. Đó là những hiện tượng, hành vi, hành động, thái độ và cách ứng xử đi ngược lại với chuẩn mực văn hoá của DN, làm mục tiêu chung của tổ chức bị ảnh hưởng, nó phát sinh trong quá trình vận hành HTTTKT tại DN, ảnh hưởng đến CLHTTTKT và từ đó ảnh hưởng lên kết quả đầu ra của HTTTKT là CLTTKT. Vận dụng vào trong NC này, nhân tố Rủi ro văn hoá tổ chức và thang đo Rủi ro văn hoá tổ chức

sẽ được kế

thừa và điều chỉnh (nếu có) từ

các NC của

Zhang và cs (2002),

Wongsim (2013), Napitupulu (2015), và Romney và Steinbart (2018).

2.1.10. Chất lượng hệ thống thông tin kế toán

Zaied (2012) cho rằng chất lượng của một hệ thống có thể được đo lường bằng độ tin cậy, khả năng sử dụng, khả năng thích ứng, niềm tin và khả năng

duy trì. Chất lượng HTTT có thể được đo lường bằng chín thuộc tính: dễ sử

dụng, dễ học, yêu cầu của người dùng, chức năng hệ thống, độ chính xác và tính linh hoạt của hệ thống, sự tinh vi, tích hợp và tùy biến (Sedera và Gable, 2004). Trong khi đó, Romney và Steinbart (2018) lập luận rằng sự thành công của một

HTTTKT có thể dựa trên các đặc điểm về tính hữu dụng, tính kinh tế, độ tin


cậy, tính sẵn sàng, dịch vụ khách hàng, năng lực, dễ sử dụng, tính linh hoạt, khả năng lưu chuyển, khả năng kiểm toán và bảo mật. Bên cạnh đó, thành công của HTTTKT có thể được đo lường bằng sự chính xác, kịp thời và liên quan (Laudon và Laudon, 2012).

Gorla và cs (2010) phân loại các thuộc tính của chất lượng hệ thống thành hai loại chính, đó là tính năng hệ thống theo quan điểm của người thiết kế hệ thống (hệ thống linh hoạt) và tính năng hệ thống theo quan điểm của người dùng cuối (hệ thống tinh vi). Các đặc điểm hệ thống linh hoạt bao gồm: (1) HTTT dễ học,

(2) Chỉ được trang bị các tính năng và chức năng hữu ích và (3) Linh hoạt để thực hiện các thay đổi dễ dàng. Hệ thống tinh vi bao gồm: (1) HTTT được áp dụng công nghệ hiện đại, (2) Tích hợp tốt, (3) Thân thiện với người dùng, (4) Tài liệu đầy đủ, (5) Thời gian phản hồi ngắn cho yêu cầu trực tuyến và (6) Độ trễ giữa các xử lý hàng loạt dữ liệu đầu vào và đầu ra.

Dẫn chứng thêm quan điểm của một số nhà NC khác như Napitupulu (2015) thì CLHTTTKT được nhận biết qua các đặc điểm: tích hợp, linh hoạt, tin cậy và hiệu quả. Darma J. và cs (2018) thì cho rằng CLHTTTKT bao gồm: độ tin cậy, tích hợp và khả năng tiếp cận. Còn Anggadini (2015) thì nhấn mạnh 3 thuộc tính linh hoạt, hiệu quả và khả năng tiếp cận. Một NC về CLHTTTKT của P. Patel (2015) lại chỉ ra các thuộc tính CLHTTTKT bao gồm: sự hiệu quả, toàn vẹn, tuân thủ, hữu hiệu, sẵn sàng và bảo mật. Trong khi, Shien (2015) thì đề cập đến hiệu quả, tích hợp và kịp thời.

Nguồn gốc của mô hình HTTT thành công DeLone và McLean (1992) (gọi tắt là D&M) dựa trên bản sửa đổi HTTT của Mason (1978) về lý thuyết truyền thông của Shannon và Weaver’s (1949), đã xác định ba cấp độ của thông tin: (1) Mức độ

kỹ thuật (độ chính xác và hiệu quả của hệ thống tạo ra nó); (2) Mức độ ngữ

nghĩa (khả năng truyền thông điệp có định hướng) và (3) Mức độ hiệu quả (mức

độ hiệu quả của nó tác động đến người nhận) (Shannon và Weaver, 1949).

Mason (1978) đã điều chỉnh lý thuyết này cho HTTT và mở rộng mức độ hiệu


quả thành ba loại con: (1) Nhận thông tin, (2) Ảnh hưởng đến người nhận và (3) Ảnh hưởng đến hệ thống. Mô hình D&M ban đầu xác định 6 yếu tố cho sự thành công của HTTT, đó là chất lượng hệ thống, chất lượng thông tin, sử dụng hệ thống, sự hài lòng của người dùng, tác động cá nhân và tác động tổ chức. Lý thuyết chung về HTTT đặt ra rằng khi chất lượng hệ thống phù hợp với chất lượng thông tin thì có nhiều khả năng có một ảnh hưởng mạnh đối với hiệu suất nếu người dùng cuối cảm thấy hài lòng và sử dụng hệ thống.

Sau khi có được ý kiến từ các nhà NC khác, DeLone và McLean đã cập nhật

mô hình năm 2003 bằng cách thêm vào các biến “Có ý định sử dụng”, “Chất

lượng dịch vụ”, gộp “Tác động cá nhân” và “Tác động tổ chức” thành “Các lợi ích ròng” và thêm vào vòng lặp phản hồi từ “Các lợi ích ròng” về “Sử dụng” và “Thoả mãn người dùng”.

Đến 2016, lại một lần nữa mô hình được các tác giả DeLone và McLean điều chỉnh “Các lợi ích ròng” thành “Các tác động ròng” cho phù hợp bởi vì hàm ý của các tác giả về kết quả đầu ra là tiêu cực hoặc tích cực nhưng thuật ngữ “Lợi ích” thì thường chỉ đề cập đến những gì tích cực. Ngoài ra, các vòng lặp phản hồi

cũng được thêm vào bằng các mũi tên phản hồi đi từ

“Sử

dụng”, “Thoả

mãn

người dùng” đến “Chất lượng hệ lượng dịch vụ”.

thống”, “Chất lượng thông tin” và “Chất

Các thuộc tính chất lượng HTTT trong mô hình D&M (2016) bao gồm: (1) Dễ học hỏi, (2) Dễ sử dụng, (3) Khả năng sẵn sàng, (4) Thời gian đáp ứng, (5) Độ tin cậy, (6) Tính linh hoạt, (7) Cá nhân hoá, (8) Tương tác hệ thống và (9) Bảo mật.


Hình 2 1 – Mô hình HTTT thành công D M cập nhật 2016 Nguồn Trích từ Information 1


Hình 2.1 – Mô hình HTTT thành công D&M (cập nhật 2016)

(Nguồn: Trích từ Information Systems Success Measurement, 2016 của DeLone và McLean)

Với bằng chứng trên cho thấy mô hình D&M có cơ sở lý thuyết đáng tin cậy, có mối quan hệ với lĩnh vực CNTT và HTTT. Các đặc tính đo lường chất lượng HTTT trong mô hình D&M có nhiều điểm tương đồng và bao quát hầu hết quan điểm của các nhà NC khác về CLHTTTKT. Vì vậy, trong công trình này, mô hình

HTTT thành công DeLone và McLean được lấy làm cơ sở để đo lường

CLHTTTKT, trên cơ sở kế thừa các thuộc tính của thành phần “chất lượng hệ thống”.

2.1.11. Chất lượng thông tin kế toán

Theo FASB (1980), các đặc tính chính yếu giúp phân biệt thông tin “có chất lượng” với thông tin “kém chất lượng” đó là có liên quan và tin cậy. Trong đó, giá trị dự đoán, giá trị xác nhận và tính kịp thời mô tả cho thuộc tính có liên quan. Độ tin cậy bao gồm việc trình bày thông tin có thể kiểm chứng, đầy đủ, trung thực và khách quan. Khả năng so sánh, gồm tính nhất quán, tương tác với tính có liên


quan và độ tin cậy, và được cho là có đóng góp vào mục tiêu hữu ích của việc ra quyết định.

Mặt khác, theo khuôn khổ chuẩn mực BCTC quốc tế, thông tin tài chính sẽ hữu ích nếu nó có liên quan và thể hiện chính xác những gì nó đại diện. Cùng lúc đó, có hai phiên bản liên quan đến khuôn khổ các thuộc tính chất lượng của Hội

đồng

chuẩn

mực

kế toán quốc

tế (IASB), IASC gốc

(1989) và IASB sửa

đổi

(2010). IASB nhấn mạnh tính hữu ích của thông tin tài chính có thể so sánh được, có thể xác minh, kịp thời và dễ hiểu. Tính liên quan và trình bày hợp lý là những đặc điểm cơ bản của thông tin tài chính hữu ích.

Năm 2010, theo quan điểm hòa hợp giữa IASB và FASB đã thống nhất khuôn mẫu các tiêu chuẩn về CLTTKT bao gồm: Có liên quan (relevance) bao gồm: Giá trị dự đoán (Predictive value) và Giá trị xác nhận (Confirmatory value);trình bày

trung thực (faithful representation) bao gồm: Đầy đủ (Complete), Khách quan

(Neutral) và Không sai sót (Free from error); Có thể kiểm chứng (verifiability),

Có thể

so sánh (comparability), Dễ

hiểu (understandability) và Kịp thời

(timeliness).

IASB và FASB (2010) chỉ ra mục đích của BCTC là cung cấp cho các nhà đầu tư, người cho vay và chủ nợ hiện tại và tiềm năng thông tin tài chính hữu ích về đơn vị báo cáo để họ có thể đưa ra quyết định có hỗ trợ các nguồn lực cho đơn vị hay không. Tính liên quan và trình bày trung thực là đặc tính nền tảng. Bốn đặc tính: có thể kiểm chứng, có thể so sánh, kịp thời và dễ hiểu là các đặc tính tăng cường bổ sung.

Đến năm 2018, IASB bổ sung thêm vào khuôn mẫu các tiêu chuẩn về

CLTTKT thuộc tính Trọng yếu (Materiality) để nhấn mạnh và giải thích thêm cho thuộc tính Có liên quan. Thông tin là trọng yếu nếu việc bỏ sót hoặc trình

bày sai thông tin có thể gây ảnh hưởng cho người dùng BCTC khi đưa ra các

quyết định của họ. Nói cách khác, tính trọng yếu là khía cạnh liên quan của một đơn vị cụ thể dựa trên bản chất hoặc mức độ, hoặc cả hai, của các khoản mục


mà thông tin có liên quan trong ngữ cảnh BCTC do một đơn vị cung cấp. Do đó, hội đồng quản trị không thể chỉ định ra một ngưỡng định lượng thống nhất cho tính trọng yếu hoặc xác định trước những gì có thể là trọng yếu trong một tình huống cụ thể.

Theo một số NC trước, chẳng hạn, thông tin có chất lượng cao là thông tin phải đạt độ chính xác, đáng tin cậy, hợp thời, đầy đủ và được phân phối theo định dạng thích hợp (Stair và Reynold, 2010). Trong khi đó, theo Laudon và Laudon (2012), thông tin chất lượng cao bao gồm các thành phần: chính xác, toàn vẹn, nhất quán, đầy đủ, hợp lệ, kịp thời và khả năng tiếp cận. Đồng thời, Hall (2011) cho rằng thông tin chất lượng cao có đặc điểm của: sự liên quan, kịp thời,

chính xác, đầy đủ và tổng quát hoá. O’Brien và Marakas (2011) đã nhóm chất

lượng thông tin theo 3 mảng, cụ thể là: (1) Mảng thời gian: tính kịp thời, sự lưu hành, tần suất và thời kỳ; (2) Mảng nội dung: độ chính xác, sự liên quan, tính đầy đủ, tính đồng nhất, phạm vi và hiệu suất và (3) Mảng hình thức: sự rõ ràng, chi tiết, thứ tự, trình bày và phương tiện truyền thông.

Ngoài ra, một số nhà NC như Fardinal (2013) quan niệm rằng CLTTKT được xác định bởi 3 thuộc tính: (1) Tính liên quan (Relevancy), (2) Tính chính xác

(Accuracy) và (3) Có khả năng kiểm tra (Verifiability); Mkonya và cs (2018) thì

xác định (1) Chính xác (accuracy), (2) Liên quan (relevance), (3) Nhất quán (consistency), (4) Đầy đủ (completeness), (5) Khách quan (neutrality), (6) Có thể hiểu được (understandability) và (7) Kịp thời (timeliness) là thuộc tính chất lượng của TTKT; trong khi Ramdany (2015) thì chỉ ra TTKT chất lượng cần có (1) Tính liên quan (relevant), (2) Độ tin cậy (reliable), (3) Đầy đủ (complete), (4) Kịp thời (timely), (5) Có thể hiểu được (understandable), (6) Có thể kiểm tra (verifiable) và (7) Có thể tiếp cận dễ dàng (easy to access).

Mặc dù có một số quan điểm khác nhau giữa các nhà NC về đặc điểm chất lượng thông tin, nhưng nhìn chung những quan điểm này tương tự với quan điểm hòa hợp và thống nhất về khuôn mẫu các tiêu chuẩn CLTTKT của hai cơ quan


chuyên môn là IASB và FASB (2010). Vận dụng vào trong luận án này, các tiêu chuẩn về CLTTKT của IASB và FASB (2010) được lựa chọn làm cơ sở lý thuyết cho việc đo lường về CLTTKT bởi tầm ảnh hưởng lớn và sâu rộng của nó trên phạm vi toàn cầu, cũng như mức độ tham chiếu và trích dẫn cao.



1.

2.2. Quản lý rủi ro HTTTKT trong môi trường máy tính

2.2.1. Mục tiêu của HTTTKT trong môi trường máy tính

Theo Considine và cs (2012), bất kỳ hệ thống dựa trên nền máy tính nào cũng phải nhằm mục tiêu đảm bảo các giao dịch được ủy quyền thích hợp, được ghi lại và thực hiện toàn bộ một cách kịp thời.

Ủy quyền thích hợp. Mục tiêu của việc ủy quyền thích hợp là để bảo đảm rằng các giao dịch được thực hiện bởi những người có thẩm quyền thích hợp và bất kỳ sửa chữa nào đối với dữ liệu trong hệ thống đều được những người thích hợp thực hiện.

Ghi nhận hợp lệ. Việc ghi chép các giao dịch một cách hợp lệ về cơ bản là độ chính xác. Độ chính xác liên quan đến việc đảm bảo rằng tất cả dữ liệu nhập vào hệ thống đều ở định dạng chính xác và đúng kiểu và dữ liệu thu thập được phản ánh chính xác thực tế của giao dịch hoặc sự kiện. Đối với mỗi giao dịch hoặc sự kiện được ủy quyền, tổ chức sẽ quan tâm đến việc đảm bảo rằng các sự kiện này được ghi lại một cách chính xác.

Đầy đủ. Tính đầy đủ có thể đề cập đến cả đầu vào cho hệ thống và các giao dịch do hệ thống xử lý. Tính đầy đủ của đầu vào nhằm mục tiêu đảm bảo tất cả các sự kiện giao dịch và tất cả dữ liệu cần thiết liên quan đến các sự kiện đó đều được thu thập vào trong hệ thống.

Ngày đăng: 07/02/2025

Gửi bình luận


Đồng ý Chính sách bảo mật*