1.1.2. Các nghiên cứu liên quan đến hệ lượng hệ thống thông tin kế toán
thống thông tin kế
toán và chất
Chủ đề NC HTTTKT trong môi trường ứng dụng ERP cũng được các nhà NC tại Việt Nam thực hiện tăng dần lên trong khoảng thời gian từ sau năm 2010.
Vũ Quốc Thông (2017) nhận thấy sự hữu hiệu của HTTTKT tích hợp trong môi trường ERP được các nhà quản lý DN nhận thức và đánh giá thông qua trợ giúp DN phát triển và nâng cao năng lực kinh doanh, thích ứng với thị trường.
Trong khi, sự thaǹ h công của HTTTKT bị chi phối bởi nhận thức cua kếtoań viên
vềtiń h hữu ićh, khả năng sử dụng của HTTT, vàviệc vận hành HTTTKT trên
thực tê.́ Tính chất người dùng, tính chất của dự ań vàsự hỗtrợ đến từ nhàquản lý
đã ảnh hưởng đêń sự thaǹ h công cua HTTTKT qua vai tròtruyền dẫn cua nhận
Có thể bạn quan tâm!
-
Ảnh hưởng của rủi ro công nghệ thông tin đến chất lượng thông tin kế toán trong các doanh nghiệp tại Việt Nam 1738937919 - 1
-
Ảnh hưởng của rủi ro công nghệ thông tin đến chất lượng thông tin kế toán trong các doanh nghiệp tại Việt Nam 1738937919 - 2
-
Các Nghiên Cứu Về Rủi Ro Cntt Và An Toàn Thông Tin Liên Quan Đến Môi Trường Kế Toán
-
Khoảng Trống Nghiên Cứu Và Định Hướng Nghiên Cứu Của Luận Án
-
Ảnh hưởng của rủi ro công nghệ thông tin đến chất lượng thông tin kế toán trong các doanh nghiệp tại Việt Nam 1738937919 - 6
-
Quản Lý Rủi Ro Htttkt Trong Môi Trường Máy Tính
Xem toàn bộ 405 trang tài liệu này.
thức vàsư
dung thực tế(Nguyễn Phước Bảo
Ấn, 2018).
Lương Đức Thuận
(2018) bổ sung CLHTTTKT, hỗ trợ của tổ chức có tác động mạnh và trực tiếp lên nhận thức của người dùng đối với khả năng sử dụng và tính hữu ích của HTTTKT. Điều này có tác động tích cực đến cách HTTTKT được sử dụng trong môi trường ERP. Hơn nữa, tổ chức HTTTKT trong môi trường ERP đóng vai trò quan trọng để đảm bảo khả năng tồn tại và cạnh tranh của DN. Triển khai hệ thống ERP là một hoạt động không thể thiếu đối với các DN logistics Việt Nam trên thương trường quốc tế (Trần Văn Tùng và Võ Tấn Liêm, 2019).
Những NC đề cập ở trên đã kế thừa các NC về ERP trên toàn cầu vào bối cảnh tại Việt Nam như đánh giá ảnh hưởng của việc sử dụng thành công ERP đến tổ chức HTTTKT hay tác động của hành vi người dùng đến việc ứng dụng ERP thành công tại DN. Kết quả các NC này chỉ ra rõ ràng mối quan hệ giữa ERP
và HTTTKT của DN, ERP hỗ trợ tổ chức HTTTKT và cải tiến hiệu quả của
hoạt động. Các
PPNC và các kỹ thuật
phân tích định
tính và định
lượng
cũng
được sử dụng rất rộng rãi.
Ngoài ra, còn có các NC đã được thực hiện về tác động của CNTT đối với HTTTKT ở Việt Nam. Điển hình là nhóm tác giả Phan Đức Dũng và Phạm Anh
Tuấn (2015) đã định hình được 3 nhân tố ảnh hưởng là phần cứng, phần mềm, và thông tin đầu ra. Chúng có tác động đáng kể đến hiệu quả của HTTTKT trên nền máy tính. Trong khi, Trịnh Viết Giang (2017) chi tiết hơn khi chỉ ra các tác động của CNTT đến HTTTKT DN bao gồm: (1) tác động đến ghi nhận dữ liệu,
(2) tác động đến xử lý và lưu trữ dữ liệu và (3) tác động đến kết xuất báo cáo; tương ứng với ba mức ứng dụng CNTT vào kế toán: (1) xử lý bán thủ công, (2) tự động hoá kế toán và (3) tự động hóa quản lý. Kết quả NC cũng chứng minh lợi ích của việc ứng dụng CNTT vào hoạt động kế toán. Chẳng hạn, lợi ích của dữ liệu được thu nhận, các hình thức thu thập dữ liệu kế toán, lợi ích của việc xử lý dữ liệu, lợi ích của người cung cấp thông tin, lợi ích của việc cung cấp thông tin và người sử dụng thông tin, và việc tăng cường kiểm soát.
Chủ đề về các nhân tố ảnh hưởng đến CLHTTTKT cũng có một số NC điển hình:
Wongsim (2013) phân các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng HTTTKT thành 4 nhóm: (1) nhân tố tổ chức, (2) nhân tố các bên liên quan, (3) nhân tố kỹ thuật công nghệ, và (4) nhân tố bên ngoài. Trên thực tế, các tổ chức cần hiểu tầm quan trọng của các nhân tố ảnh hưởng đến việc chọn lựa và áp dụng phần mềm và phần cứng hỗ trợ hoạt động, quản lý chiến lược và ra quyết định trong việc sử dụng HTTTKT. Điều này cần được lưu ý khi sử dụng HTTTKT để nâng cao hiệu quả của nó.
Carolina (2014) và Wisna (2015) lưu ý CLHTTTKT có thể được cải thiện hơn nữa bằng cách chú ý đến các nhân tố tổ chức như văn hóa tổ chức, cam kết của tổ chức và cơ cấu tổ chức; chẳng hạn như đặc trưng của văn hóa tổ chức, cải thiện cam kết của tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn được phản ánh trong cơ cấu tổ chức. Các nhân tố này không chỉ trở nên cấp thiết khi HTTT được tạo ra và phát triển, mà còn cần được xem xét khi HTTT được triển khai. Napitupulu (2015) nhấn mạnh văn hóa là một nhân tố tích cực trong việc lan truyền HTTTKT quản lý trong các đơn vị. HTTTKT quản lý nói chung là một HTTT, HTTTKT
quản lý được xây dựng để phục vụ các yêu cầu từ tổ chức và được hình thành dựa trên cơ cấu tổ chức, quy trình kinh doanh, mục tiêu của tổ chức, văn hóa tổ chức, chính trị và quản lý.
Với các tổ chức, HTTTKT là hệ thống quan trọng nhằm tạo ra thông tin tài chính hữu ích và đáng tin cậy để cho phép người sử dụng đưa ra các quyết định kinh doanh sáng suốt. Do đó, chất lượng của HTTTKT phải được nâng cao thông qua việc tăng cường cam kết đối với các nhân tố cơ cấu tổ chức, văn hóa tổ chức và hệ thống KSNB (Omar và cs, 2016). Thêm vào đó, hỗ trợ của quản lý cấp cao cũng có ảnh hưởng đáng kể và giữ vai trò đặc biệt trong đánh giá chất lượng của
HTTTKT tài chính (Darma J. và cs, 2018). Meiryani và Susanto (2018) bổ sung
thêm CLHTTTKT bị ảnh hưởng từ việc sử dụng CNTT. CLHTTTKT sẽ bị giảm sút khi CNTT chưa được sử dụng đầy đủ, chưa phát huy hết chức năng, cơ sở hạ tầng CNTT sẵn có chưa hoàn toàn tin cậy và đội ngũ hỗ trợ CNTT chưa phát huy hết tác dụng.
Tại Việt Nam, Nguyen và Nguyen (2020) củng cố thêm cho chủ đề NC về CLHTTTKT bằng khẳng định: (1) văn hóa tổ chức, (2) tham dự của lãnh đạo, (3) CNTT, (4) kiến thức về CNTT của ban quản trị, (5) kiến thức kế toán của ban quản trị, (6) các ứng dụng TTKT, (7) tư vấn từ các chuyên gia bên ngoài và (8)
các hoạt động huấn luyện cho người dùng HTTTKT là có ảnh hưởng lên
CLHTTTKT đáng kể. Trong đó, kiến thức về CNTT của ban quản trị, CNTT, tham dự của lãnh đạo, kiến thức về kế toán của ban quản trị là mạnh mẽ nhất.
Nhìn lại các NC ở trên, điểm chung của chúng là đều xem xét đến các nhân tố tổ chức như cam kết của nhà quản lý, nguồn lực con người, cam kết tổ chức, văn hoá tổ chức, cơ cấu tổ chức, sự tham dự của nhà quản lý, kiến thức của nhà quản lý về kế toán, kiến thức CNTT của nhà quản lý, huấn luyện sử dụng, năng lực người dùng, sự hỗ trợ của nhà quản lý, nhận thức về khả năng sử dụng và tính hữu ích liên quan đến CLHTTTKT. Bằng kiểm định, các NC này đã chứng minh rằng các nhân tố trên có tác động đáng kể lên CLHTTTKT. Một số ít NC có
nhắc đến tác động của CNTT (Wongsim, 2013; Phan Đức Dũng và Phạm Anh Tuấn, 2015; Meiryani và Susanto, 2018; Nguyen và Nguyen, 2020) đối với
CLHTTTKT thể
thống mạng.
hiện qua một số
nhân tố
như
phần cứng, phần mềm và hệ
Mặc dù các NC đặt trọng tâm vào việc xem xét tác động của các nhân tố kể trên đối với HTTTKT hay CLHTTTKT, nhưng chưa cho thấy NC ảnh hưởng từ HTTTKT hay CLHTTTKT đến CLTTKT. Chính vì thế, cũng cần có thêm những NC ảnh hưởng của HTTTKT hay CLHTTTKT đối với CLTTKT, đặc biệt là NC dưới góc nhìn của rủi ro CNTT khi mà HTTTKT và CLTTKT ngày càng bị chi phối nhiều bởi CNTT trong thế giới số ngày nay.
Tổng hợp nghiên cứu liên quan đến HTTTKT và CLHTTTKT (Phụ lục 2)
1.1.3. Các nghiên cứu liên quan đến CLTTKT
Nghiên cứu về
các nhân tố ảnh hưởng đến
CLTTKT được biết đến trong
công trình của AlHiyari và cs (2013) cho thấy có mối tương quan chặt chẽ giữa cam kết quản lý, chất lượng dữ liệu và việc triển khai HTTTKT. Mặc dù mối quan hệ này không liên quan chặt chẽ đến nguồn nhân lực, nhưng NC cũng phát
hiện ra mối quan hệ quan trọng giữa nguồn nhân lực, HTTTKT và CLTTKT.
Rapina (2014) bổ sung cam kết quản lý, văn hóa tổ chức và cơ cấu tổ chức ảnh hưởng một phần và đồng thời đến CLHTTTKT và CLTTKT. CLHTTTKT có thể được nâng lên từ việc tăng cường cam kết ngày càng tốt hơn đối với việc quản lý, cơ cấu tổ chức và văn hóa tổ chức. Đồng quan điểm, Meiryani (2014) khẳng định việc hỗ trợ của lãnh đạo cấp cao giúp nâng cao CLHTTTKT và tác động tích cực đến CLTTKT, qua đó chất lượng của việc ra quyết định cũng được nâng cao. Ngoài hỗ trợ của lãnh đạo cấp cao, Shien (2015) còn cho rằng khả năng của
người sử
dụng có
ảnh hưởng hiệu quả
đến CLHTTTKT và tác động đến
CLTTKT của DN. HTTTKT chất lượng có thể hỗ trợ ban giám đốc thực thi trách nhiệm và các chức năng của việc lên kế hoạch, chỉ thị, ra quyết định và giám sát nhằm hướng đến các mục tiêu của DN và gian lận tài chính sẽ giảm thiểu.
Trong một NC khác, Fitriati và Mulyani (2015) cho rằng với cam kết tổ chức ở mức cao, nhân viên sẽ có niềm tin vào mục tiêu của đơn vị để họ có nhận thức tích cực về triển khai hệ thống. Khi nhân viên có nhận thức cao về sự hữu ích và tính dễ sử dụng của HTTTKT, họ sẽ có động lực sử dụng hệ thống để cải thiện hiệu quả làm việc đáp ứng các mục tiêu của tổ chức. Ngoài ra, văn hoá tổ chức mạnh mẽ cũng sẽ hỗ trợ triển khai thành công HTTTKT và sự thành công của HTTTKT cũng sẽ tăng cường đặc điểm CLTTKT là tính liên quan, sự chính xác, kịp thời và đầy đủ.
Bằng việc cải thiện huấn luyện người sử dụng và cam kết đến từ nhà quản trị cấp cao sẽ giúp tăng cường CLTTKT (Fitrios, 2016). Hỗ trợ đến từ nhà quản trị cấp cao và nhân tố cá nhân sẽ giúp tăng cường CLHTTTKT, từ đó cũng gia tăng được CLTTKT (Mkonya và cs, 2018).
Các NC trên đã nhận diện ra các nhân tố tổ chức như cam kết/ hỗ trợ của nhà quản lý, nguồn lực con người, cam kết tổ chức, cơ cấu tổ chức và văn hoá tổ chức có tác động đáng kể lên CLTTKT. Đối tượng phân tích trong các NC chỉ ra ở đây rất đa dạng từ cá nhân là người học, nhân viên kế toán cho đến các DN kinh doanh, tổ chức giáo dục và tổ chức phi chính phủ.
Mặc dù PPNC định tính và định lượng đã được triển khai đầy đủ trong các NC này nhưng các nhà NC chỉ xem xét đến các nhân tố tổ chức mà chưa thấy đề
cập đến các nhân tố
CNTT như
phần cứng, phần mềm và
ứng dụng tiến bộ
CNTT. Từ thực tế này cho thấy cần có những NC thêm về ảnh hưởng của các nhân tố CNTT, đặc biệt là rủi ro CNTT đến CLTTKT.
Tổng kết nghiên cứu liên quan đến CLTTKT (Phụ lục 3)
1.1.4. Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa rủi ro CNTT với CLHTTTKT và CLTTKT
Sự thay đổi nhanh chóng của CNTT, sự bùng nổ của các hệ thống thân thiện với người dùng và mong muốn của các tổ chức là có và triển khai được các bản
cập nhật của hệ thống kế toán vi tính hoá và phần mềm đã làm cho máy tính được sử dụng dễ dàng hơn, cho phép hoàn thành các nhiệm vụ kế toán nhanh hơn và chính xác hơn. Mặt khác, công nghệ tiên tiến cũng đã tạo ra những rủi ro đáng quan tâm liên quan đến việc đảm bảo tính bảo mật và tính toàn vẹn của HTTTKT trên nền máy tính. Vì sự tin cậy của thông tin và những thay đổi liên tục trong công nghệ buộc các tổ chức phải thực hiện kiểm soát an ninh để bảo vệ HTTTKT trên nền máy tính của họ trước sự tiềm ẩn của những mối hiểm hoạ an ninh. Tuy nhiên, việc không bảo đảm an toàn HTTTKT trên nền máy tính và thông tin do hệ thống tạo ra hoặc khó tiếp cận được khi cần thiết có thể đưa đến những thiệt hại lớn về tài chính và phi tài chính (Gunawardana, 2017 trích dẫn theo AbuMusa, 2007; AbuMusa, 2009).
Hanini (2012) kết luận rằng có những rủi ro thách thức cho sự an toàn của HTTTKT trong các ngân hàng Jordan; liên hệ đến việc nhân viên cố tình nhập dữ
liệu xấu, rủi ro liên hệ
đến sự
xâm nhập của vi rút vào hệ
thống, rủi ro về
KSNB như người không được phép lại xem được kết quả và rủi ro về các thảm họa tự nhiên và bất thường do con người thực hiện. Một trong những điều quan trọng nhất dẫn đến những rủi ro này là do nhân viên của ngân hàng thiếu kinh nghiệm trong việc giữ an toàn thông tin, vốn được biết đến là do thiếu đào tạo nhân viên về cách dùng các phương tiện bảo vệ hệ thống kế toán trước khi bắt đầu công việc của họ và việc thiếu một hệ thống tuyển dụng phù hợp để bổ nhiệm đúng người vào vị trí thích hợp.
Việc sử dụng ngày càng nhiều ngân hàng điện tử, HTTTKT điện tử dẫn đến việc đòi hỏi những trách nhiệm mới để tránh các rủi ro bắt nguồn từ việc sử dụng những hệ thống này, vốn có những lỗi có thể xuất hiện trong hoạt động xử lý và dĩ nhiên có thể tác động đến chất lượng BCTC, dẫn đến gây xâm hại trầm trọng lợi ích của ngân hàng và lợi ích người dùng các báo cáo đó trong các quyết định tài chính được đưa ra từ họ (ALAmro, Alnawaiseh, Bader, và Alnawaiseh,
2017). Trong NC về tác động của các rủi ro HTTTKT điện tử lên chất lượng
BCTC ở ngân hàng thương mại Jordan, các tác giả đã chỉ ra sự hiện diện của rủi ro nhập dữ liệu, rủi ro quản lý dữ liệu, rủi ro đầu ra của dữ liệu, rủi ro môi trường bên ngoài và bên trong là các nhân tố tác động đến chất lượng BCTC.
Việc quá phụ thuộc vào CNTT trong việc thực hiện các hoạt động ngân hàng ở những thập kỷ qua đã được công nhận rõ ràng. Việc sử dụng HTTT trong việc thực thi các nhiệm vụ kế toán đã được ghi nhận với nhiều lời khen ngợi, tuy nhiên các mối đe dọa đối với hệ thống là điều không thể tránh khỏi với hầu hết DN trong sự biến đổi không ngừng của môi trường kinh doanh. NC của Bansah (2018) có những điểm giống với Hanini (2012) cho thấy rằng các nguồn đe dọa đáng lo ngại nhất đối với HTTTKT trên nền máy tính bao gồm mất điện, rủi ro do nhân viên gây ra, vi rút và các mối đe dọa từ bên ngoài. Liên quan đến nguyên nhân của các rủi ro đối với HTTTKT trên nền máy tính, các phát hiện chỉ ra rằng việc vô tình nhập dữ liệu xấu, sao chép trái phép đầu ra của hệ thống, thiếu sao lưu thường xuyên, cập nhật không thường xuyên phần mềm bảo vệ hệ thống, truy cập trái phép dữ liệu bởi nhân viên, yếu kém trong KSNB và thiếu các chính sách bằng văn bản là những lý do đưa đến các mối đe dọa đối với HTTTKT trên nền máy tính.
Một kết quả NC khác từ Al Haija (2021) thì cho rằng hầu hết các rủi ro là kết
quả của các nguyên nhân bên trong chứ không phải nguyên nhân bên ngoài và
chúng phát sinh do các sai sót hoặc sơ suất ngoài ý muốn. HTTTKT trên nền máy tính có nhiều rủi ro đe dọa đến sự an toàn của nó và các rủi ro này ảnh hưởng đến CLTTKT.
Tóm lại, HTTTKT là một hệ thống dựa trên công nghệ cho phép các tổ chức thu thập, lưu trữ và xử lý dữ liệu kế toán (phi tài chính và tài chính) và chuyển
đổi nó thành thông tin hỗ
trợ
cho người ra quyết định (Bodnar và Hopwood,
2013). HTTTKT là một tập hợp các hoạt động, tài liệu và công nghệ có liên quan với nhau được thiết kế để thu nhận, xử lý dữ liệu và chuyển thông tin đếnnhiều nhóm người ra quyết định trong nội bộ và bên ngoài tổ chức. Sự phát triển của
CNTT là một động lực tích cực trong kinh doanh; nhưng cũng như tất cả các đổi mới khác, nó cũng có mặt trái là rủi ro đi kèm (Hurt, 2010).
Tổng kết nghiên cứu về mối quan hệ giữa rủi ro CNTT với CLHTTTKT và CLTTKT (Phụ lục 4)
1.2. Nhận xét chung về các nghiên cứu
Điểm qua các NC trước theo phạm vi tìm hiểu được, tác giả đề tài có những nhận xét như sau:
Các NC về rủi ro CNTT và an toàn thông tin chỉ ra các rủi ro ảnh hưởng đến HTTT nói chung và HTTTKT nói riêng có liên quan đến phần mềm, phần cứng, dữ liệu, ứng dụng tiến bộ CNTT và con người. Bằng PPNC định tính với việc giao tiếp các chuyên gia về IT, các nhân viên kế toán đang làm việc tại các công ty và NC định lượng ở bước thống kê mô tả, các tác giả đã xác định được các rủi ro mà HTTTKT gặp phải trong môi trường tin học hoá. Như vậy, ở các NC này chưa cho thấy thêm bước NC định lượng là xem xét mức độ tác động của các rủi ro này đối với HTTTKT hay CLHTTTKT.
Các NC liên quan đến HTTTKT và CLHTTTKT thì cho thấy các nhà NC đã tiếp cận dựa trên góc nhìn của tổ chức để nhận diện và đo lường các nhân tố tác động đến HTTTKT hay CLHTTTKT. Các nhân tố tổ chức ở đây bao gồm: cam kết của nhà quản lý, nguồn lực con người, văn hoá tổ chức, cơ cấu tổ chức và cam kết tổ chức. Những NC này đã chứng minh được chiều tác động cũng như
mức ảnh hưởng của các nhân tố, nhưng vẫn chưa có NC về ảnh hưởng của
HTTTKT hay CLHTTTKT đến kết quả đầu ra của nó là CLTTKT.
Trong khi đó, những NC có mối liên hệ đến CLTTKT thì đã làm rõ thêm mối liên hệ và chiều tác động giữa HTTTKT hay CLHTTTKT đối với CLTTKT. Theo hướng NC này, góc nhìn của tổ chức vẫn được các nhà NC vận dụng để chỉ ra các nhân tố tác động đến CLHTTTKT là các nhân tố tổ chức.
Những NC về mối liên hệ giữa rủi ro CNTT với CLHTTTKT và CLTTKT thì đã xác định mối liên hệ mật thiết giữa HTTTKT và CNTT, CNTT một mặt vừa