Các giả thuyết được đặt ra như sau:
Ho: Không có sự khác biệt giữa các nhóm có số lượng ngân hàng giao dịch khác nhau về quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế.
H1: Có sự khác biệt giữa các nhóm có số lượng ngân hàng giao dịch khác nhau về quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế.
Kết quả kiểm định (phụ lục) cho thấy, giá trị Sig của kiểm định Levene = 0,331
> 0,05 và Sig của bảng ANOVA có giá trị thống kê Sig = 0,786 > 0,05. Vì thế, cho phép kết luận không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về quyết định sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có số lượng ngân hàng giao dịch khác nhau trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
4.5.3 Thời gian sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế
Các giả thuyết được đặt ra như sau:
Ho: Không có sự khác biệt giữa các nhóm có thời gian sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế khác nhau về quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế.
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Cấu Các Nhóm Doanh Số Giao Dịch Của Các Doanh Nghiệp Được Khảo Sát Trên Địa Bàn Thành Phố Hồ Chí Minh
- Thang Đo Nhân Tố “Lòng Trung Thành Thương Hiệu”
- Kiểm Định Sự Khác Biệt Giữa Các Nhóm Theo Đặc Điểm Doanh Nghiệp Xuất Nhập Khẩu Trên Địa Bàn Thành Phố Hồ Chí Minh Đối Với Quyết Định Lựa Chọn
- Ảnh hưởng của giá trị thương hiệu đến quyết định lựa chọn Ngân hàng thanh toán quốc tế đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh - 11
- Ảnh hưởng của giá trị thương hiệu đến quyết định lựa chọn Ngân hàng thanh toán quốc tế đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh - 12
- Ảnh hưởng của giá trị thương hiệu đến quyết định lựa chọn Ngân hàng thanh toán quốc tế đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh - 13
Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.
H1: Có sự khác biệt giữa các nhóm có thời gian sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế khác nhau về quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế.
Kết quả kiểm định (phụ lục) cho thấy, giá trị Sig của kiểm định Levene = 0,491> 0,05 và Sig của bảng ANOVA có giá trị thống kê Sig = 0,015 < 0,05. Vì thế nên ta kết luận có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về quyết định sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có thời gian từng sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế khác nhau trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Ta tiến hành phân tích sâu bằng kiểm định Bonferoni.
Phân tích sâu bằng kiểm định Bonferoni cho thấy:
- Nhóm có thời gian sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế dưới 1 năm khác với nhóm sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế từ 1-3 năm trong quyết định lựa chọn ngân hàng giao dịch. Doanh nghiệp có thời gian sử dụng dịch vụ thanh toán
quốc tế dưới 1 năm đa phần là các doanh nghiệp mới thành lập hoặc đã thành lập nhưng mới có hoạt động xuất nhập khẩu, vì vậy các doanh nghiệp này có sự khác biệt trong sự lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế so với các doanh nghiệp đã sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế từ 1 – 3 năm.
- Nhóm có thời gian sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế dưới 1 năm khác với nhóm sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế trên 7 năm trong quyết định lựa chọn ngân hàng giao dịch.
4.5.4 Loại hình doanh nghiệp (Xuất khẩu hay nhập khẩu)
Các giả thuyết được đặt ra như sau:
Ho: Không có sự khác biệt giữa các loại hình doanh nghiệp về quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế
H1: Có sự khác biệt giữa các loại hình doanh nghiệp về quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế
Kết quả kiểm định (phụ lục) cho thấy, giá trị Sig của kiểm định Levene = 0.331
> 0.05 và Sig của bảng ANOVA có giá trị thống kê Sig = 0.786 > 0.05. Vì thế, cho phép kết luận không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế giữa các doanh nghiệp có loại hình doanh nghiệp khác nhau tại thành phố Hồ Chí Minh.
4.5.5 Phương thức thanh toán
4.5.5.1 Các công ty xuất khẩu
Các giả thuyết được đặt ra như sau:
Ho: Không có sự khác biệt giữa các phương thức thanh toán về quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế của các doanh nghiệp xuất khẩu
H1: Có sự khác biệt giữa các phương thức thanh toán về quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế của các doanh nghiệp xuất khẩu
Kết quả kiểm định (phụ lục) cho thấy, giá trị Sig của kiểm định Levene = 0.667
> 0.05 và Sig của bảng ANOVA có giá trị thống kê Sig = 0.076 > 0.05. Vì thế, cho phép kết luận không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế giữa các doanh nghiệp xuất khẩu có các phương thức thanh toán khác nhau trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
4.5.5.2 Các công ty nhập khẩu
Các giả thuyết được đặt ra như sau:
Ho: Không có sự khác biệt giữa các phương thức thanh toán về quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế của các doanh nghiệp nhập khẩu
H1: Có sự khác biệt giữa các phương thức thanh toán về quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế của các doanh nghiệp nhập khẩu
Kết quả kiểm định (phụ lục) cho thấy, giá trị Sig của kiểm định Levene = 0.746
> 0.05 và Sig của bảng ANOVA có giá trị thống kê Sig = 0.202 > 0.05. Vì thế, cho phép kết luận không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế giữa các doanh nghiệp nhập khẩu có các phương thức thanh toán khác nhau trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Tóm tắt chương 4
Chương 4 trình bày các kết quả chính của nghiên cứu này. Bắt đầu bằng việc mô tả thông tin về mẫu nghiên cứu thu thập được, các thống kê mô tả về đặc điểm của mẫu nghiên cứu. Sau đó, tác giả nghiên cứu tiến hành đánh giá độ tin cậy của thang đo bằng hệ số Cronbach's Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích hồi quy bội, phân tích phương sai ANOVA tìm ra sự khác biệt về quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế giữa các nhóm doanh nghiệp khác nhau trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, ở thời điểm hiện tại có 04 yếu tố có tác động đến quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế của doanh nghiệp xuất nhập khẩu tại thành phố Hồ Chí Minh được xếp theo trình tự mức độ ảnh hưởng từ cao xuống thấp là: (1) Liên tưởng thương hiệu (β chuẩn hóa = 0.686), (2) Nhận biết thương hiệu (β chuẩn hóa = 0.439), (3) Lòng trung thành thương hiệu (β chuẩn hóa = 0.269), (4) Chất lượng cảm nhận (β chuẩn hóa = 0,211).
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, có sự khác biệt về quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế của doanh nghiệp xuất nhập khẩu tại thành phố Hồ Chí Minh theo thời gian sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế. Mặt khác, nghiên cứu cũng cho thấy, không tìm thấy sự khác biệt về quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế của doanh nghiệp xuất nhập khẩu tại thành phố Hồ Chí Minh giữa các nhóm có doanh số giao dịch thanh toán quốc tế, số lượng ngân hàng giao dịch, loại hình doanh nghiệp và phương thức thanh toán quốc tế khác nhau.
CHƯƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Trong chương này, tác giả sẽ thảo luận những kết quả chính của nghiên cứu. Bên cạnh đó, tác giả đề xuất một số giải pháp liên quan đến bốn nhân tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế. Cuối cùng, tác giả không quên nhìn nhận những hạn chế không tránh khỏi của luận văn và hướng nghiên cứu tiếp theo.
5.1 Tóm tắt kết quả nghiên cứu
Kết quả của nghiên cứu này chỉ ra rằng mối tương quan dương giữa 4 nhân tố (nhận biết thương hiệu, chất lượng cảm nhận, liên tưởng thương hiệu, trung thành thương hiệu) với quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế của doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Mỗi nhân tố thể hiện mức độ ảnh hưởng khác nhau lên quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế. Điều này giúp cho các nhà lãnh đạo của ngân hàng xem xét mỗi nhân tố với mức độ thận trọng khác nhau.
5.2 Hàm ý quản trị
5.2.1 Kiến nghị về nhận biết thương hiệu
Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ nhận biết thương hiệu tăng sẽ làm tăng quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế. Trong quá trình nghiên cứu tác giả nhận thấy mức độ nhận biết thương hiệu là đứng thứ 2 trong 4 thành phần giá trị thương hiệu tác động lên quyết định mua hàng với hệ số Cronbach’s Alpha là 0.888. Mặt khác, hệ số hồi quy trong phân tích hồi quy lại nằm ở mức tương đối cao với hệ số β chuẩn hóa = 0.439 cao hơn chất lượng thương hiệu và lòng trung thành thương hiệu. Điều này chứng tỏ một điều là mức độ nhận biết thương hiệu của khách hàng chưa được đầu tư cao do đó ngân hàng cần tập trung tăng tỷ lệ đầu tư về chính sách truyền thông vì mức độ nhận biết càng tăng bao nhiêu thì quyết định sử dụng dịch vụ thanh
toán quốc tế tại ngân hàng đó càng tăng bấy nhiêu. Tuy nhiên các ngân hàng không phải đầu tư truyền thông một cách tràn lan mà cần phải có kế hoạch tập trung những khu vực nào nên đánh mạnh về công tác truyền thông và hiểu được ai là đối tượng làm công tác quảng cáo, quảng cáo thông qua kênh nào? Tập trung làm rò thông điệp quảng cáo. Thực hiện một số chương trình lớn truyền thông thông điệp, văn hoá đến với khách hàng doanh nghiệp. Quảng cáo nên có thông điệp mở kích thích bản năng thích khám phá của khách hàng. Quảng cáo cần thay đổi thường xuyên để tránh sự nhàm chán đánh vào khách hàng mục tiêu mà ngân hàng hướng tới và thuộc về thế mạnh của ngân hàng đó.
5.2.2 Kiến nghị về thành phần chất lượng cảm nhận
Chất lượng cảm nhận là yếu tố tác động yếu nhất lên quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Các ngân hàng cung cấp các dịch vụ thanh toán quốc tế khác nhau với chất lượng dịch vụ khác nhau. Tuy nhiên cùng nếu xét trên cùng một dịch vụ thanh toán quốc tế, cùng mức phí những mỗi doanh nghiệp khác nhau sẽ có giá trị cảm nhận khác nhau hay nói khác đi đó chính là tình cảm của doanh nghiệp dành cho một thương hiệu. Đó chính là thành phần giá trị ẩn được ngân hàng tạo ra và nó có mức độ ảnh hưởng cao với hệ số hồi quy β chuẩn hóa =
0.211. Do đó, xét trong thị trường ngân hàng yếu tố giá trị cảm nhận có tác động đến quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế của doanh nghiệp, nên ngân hàng cần tập trung giữ vững và phát huy yếu tố giá trị cảm nhận như các dịch vụ chăm sóc khách hàng doanh nghiệp, đảm bảo uy tín ngân hàng, tính đơn giản trong thủ tục và chất lượng dịch vụ trong giao dịch với khách hàng.
5.2.3 Kiến nghị về lòng trung thành thương hiệu
Trong điều kiện kinh tế toàn cầu và sự cạnh tranh mạnh mẽ, các ngân hàng đồng thời đưa ra những gói dịch vụ đa dạng với chất lượng ngày càng cao thì yếu tố lòng trung thành thương hiệu bị giảm, theo nghiên cứu của tác giả cũng khá dễ hiểu trong thị trường ngân hàng. Với hệ số hồi quy β chuẩn hóa = 0.269 là mức độ ảnh hưởng lên
quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế. Lòng trung thành thương hiệu là việc doanh nghiệp sử dụng lặp đi lặp lại dịch vụ thanh toán quốc tế của một ngân hàng nào đó nên ngân hàng cần tập trung duy trì lòng trung thành của doanh nghiệp bằng các hoạt động chăm sóc cũng như sự quan tâm của ngân hàng đối với doanh nghiệp vì nếu doanh nghiệp này mất đi thì khó có thể quay lại sử dụng dịch vụ của ngân hàng.
5.2.4 Kiến nghị về liên tưởng thương hiệu
Liên tưởng thương hiệu là bất cứ thứ gì có liên quan đến thương hiệu nằm sâu trong tâm trí của khách hàng. Theo kết quả nghiên cứu, liên tưởng thương hiệu có tác động lớn đến việc lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế của doanh nghiệp, với hệ số hồi quy β chuẩn hóa = 0.686. Nguyên nhân là do liên tưởng thương hiệu là yếu tố quyết định đối với sự lựa chọn của doanh nghiệp trước sự cạnh tranh của hàng loạt các ngân hàng khác trên thị trường. Việc sỡ hữu các liên tưởng tốt là rào cản vững chắc trước các đối thủ cạnh tranh. Vì vậy, muốn có được sự liên tưởng thương hiệu tốt cần phải truyền đạt tới khách hàng những định đề giá trị vượt trội gắn liền với hệ thống nhận diện đặc trưng của thương hiệu. Với thị trường ngân hàng hiện nay, cần tạo ra những gói sản phẩm, dịch vụ bền vững, phù hợp với thị trường và phù hợp với mong muốn của doanh nghiệp nhằm duy trì liên tưởng thương hiệu tích cực, tạo lợi thế cạnh tranh trong thị trường để khách hàng luôn nhớ đến khi nhắc đến thương hiệu đó.
5.3 Hạn chế của đề tài
Nghiên cứu này đã đem lại những kết quả nhất định trong việc xác định các yếu tố thành phần của giá trị thương hiệu ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng như mức độ ảnh hưởng của các yếu tố này. Tuy nhiên, cũng như bất kỳ một nghiên cứu nào, một số hạn chế vẫn còn tồn tại
- Mặc dù thành phố Hồ Chí Minh, một trong những thành phố lớn nhất của Việt Nam đã được lựa chọn để thực hiện nghiên cứu nhưng vẫn không thể đại diện cho tất
cả các doanh nghiệp Việt Nam, trong khi như đã đề cập ở phần trước, các yếu tố đóng vai trò quan trọng trong sự lựa chọn ngân hàng ở một vùng này nhưng có thể lại không quan trọng ở vùng khác. (Almossawi, 2001).
- Nghiên cứu này chỉ tập trung vào một sản phẩm đặc thù là thanh toán quốc tế, trong khi các ngân hàng cung cấp rất nhiều sản phẩm khác nhau và các sản phẩm này có liên quan, hỗ trợ lẫn nhau. Vì vậy, ở nghiên cứu tiếp theo có thể tiếp cận nhiều sản phẩm dịch vụ hơn như gói sản phẩm dành cho khách hàng doanh nghiệp (tín dụng, bảo lãnh, tiền gửi, chi lương, thẻ…).
- Phương pháp chọn mẫu trong nghiên cứu này là phương pháp thuận tiện. Tuy có ưu điểm là dễ thực hiện, ít tốn kém nhưng tính đại diện không cao. Để đạt được tính đại diện cao cần nghiên cứu sâu hơn, kích thước mẫu lớn hơn.
- Những hạn chế trên thật sự đã mở ra nhiều hướng đi mới cho những nghiên cứu tiếp theo:
- Thực hiện nghiên cứu lặp lại ở các địa phương khác ngoài thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt là những địa phương có hoạt động xuất nhập khẩu sối động như Hà Nội, Hải Phòng…
- Tăng kích thước mẫu để tăng tính đại diện của mẫu, dữ liệu sẽ có ý nghĩa và mang lại kết quả chính xác hơn. Ngoài ra, cần tăng kích thước mẫu để có thể nghiên cứu quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế một cách toàn diện hơn, theo từng trường hợp xuất/nhập khẩu và theo từng phương thức thanh toán.
- Thêm vào mô hình các nhân tố khác để mô hình được hoàn thiện, phản ánh đầy đủ thực tiễn các nhân tố tác động đến quyết định lựa chọn ngân hàng thanh toán quốc tế.
- Thực hiện nghiên cứu về thanh toán quốc tế cũng như các sản phẩm liên quan vì tất cả các sản phẩm này đều có liên hệ mật thiết với nhau, cùng ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn ngân hàng chung của doanh nghiệp.