Tuy nhiên điều này sẽ làm cho Ngân hàng tốn một khoản phí khá lớn để có thể nghe và tập hợp thông tin.
3.1.3 Thành lập bộ phận nghiên cứu, phân tích và dự báo kinh tế
vĩ mô
Một phần khá lớn rủi ro trong hoạt động tín dụng xuất phát từ việc thiếu
thông tin hoặc tiếp nhận thông tin không chính xác từ khách hàng, xử lý thông tin thị trường còn sơ sài. Tất cả phần việc trên hiện đều đặt trách nhiệm vào cán bộ tín dụng nên việc xảy ra thiếu sót và xử lý sai lệch là điều khó tránh khỏi. Ngoài ra, hệ thống cung cấp thông tin tín dụng của Ngân hàng TMCP Á Châu và của Ngân hàng Nhà nước đang hoạt động hiệu quả chưa cao vì thông tin cung cầp chỉ thuần túy là những con số mà thiếu những nhận định chuyên môn, những dự báo đáng tin cậy. Để tránh được rủi ro từ nguyên nhân này, Ngân hàng TMCP Á Châu nên thành lập Bộ phận nghiên cứu, phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô, ví dụ như : Khối KHDN thành bộ phận nghiên cứu lĩnh vực thủy sản, sắt thép, gạo, …. Bộ phận này sẽ dựa trên tất cả các kênh thông tin, các nguồn nghiên cứu và dự báo khác để làm định hướng cho hoạt động tín dụng, chiến lược quản lý rủi ro tín dụng, chiến lược khách hàng và chiến lược đầu tư vốn tín dụng của mình. Bộ phận này sẽ tiến hành phân tích, đánh giá quy mô, cơ cấu và hiệu quả tín dụng của các ngành kinh tế, thành phần kinh tế, địa bàn nông thôn và thành thị để trên cơ sở đó ngân hàng có thể thực hiện các giải pháp mở rộng tín dụng an toàn - hiệu quả - bền vững.
3.1.4 Tài sản thế chấp và số dư bù.
Vật thế chấp là vật sở hữu được hứa cho ngân hàng nếu doanh nghiệp vỡ nợ, làm giảm bớt hậu quả của lựa chọn nghịch bởi vì nó giảm các tổn thất của ngân hàng trong trường hợp xảy ra một vụ vỡ nợ. Nếu doanh nghiệp vỡ nợ thì ngân hàng có thể bán vật thế chấp để bù lại các khoản mất mát. Một dạng riêng của vật thế chấp là số dư bù, một doanh nghiệp khi nhận được tiền vay phải cam kết duy trì doanh số giao dịch tài khoản tại ngân hàng. Ngoài việc có tác dụng như một tài sản thế chấp, số dư bù còn giúp tăng được khả năng món tiền cho vay sẽ được hoàn trả. Điều này giúp Ngân hàng giám sát công ty đó và ngăn ngừa được rủi ro đạo đức. Đặc biệt, phải bắt
71
Có thể bạn quan tâm!
- Thống Kê Nguyên Nhân Nợ Quá Hạn Bắt Nguồn Từ Hiện Tượng Bất Đối Xứng Thông Tin Trong Hoạt Động Tín Dụng Doanh Nghiệp Của Acb
- Phát Hiện Sớm Những Thay Đổi Bất Thường Của Doanh Nghiệp
- Cần Chặt Chẽ Hơn Trong Khâu Tuyển Dụng, Tuyển Những Người Có Đức, Có Tài, Xem Ngân Hàng Là Nơi Phấn Đấu Cho Sự Nghiệp.
- Ảnh hưởng của bất đối xứng thông tin trong hoạt động tín dụng doanh nghiệp tại Ngân hàng TMCP Á Châu - 12
Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.
buộc doanh nghiệp vay có một tài khoản ở Ngân hàng sẽ mang lại rất nhiều thông tin về điều kiện tài chính của doanh nghiệp. Ví dụ như một sự sụt giảm kéo dài về số dư của tài khoản cho biết doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính. Hoặc hoạt động kế toán có thể cho biết doanh nghiệp đang thực hiện những hoạt động rủi ro cần tiến hành theo dòi sát sao.
Ví dụ : Khách hàng doanh nghiệp được duyệt vay tín chấp, nhưng doanh nghiệp phải cam kết chuyển doanh số giao dịch hàng tháng về Ngân hàng, để Ngân hàng có thể kiểm tra dòng tiền thu chi của khách hàng. Đây cũng được xem như một khoản đảm bảo cho khoản cấp tín dụng.
3.1.5 Nghiêm chỉnh thực hiện quản lý tài sản đảm bảo và quy chế đảm bảo tiền vay
Để tài sản đảm bảo phát huy tối đa tác dụng đảm bảo thì ngân hàng phải có những biện pháp hữu hiệu trong việc quản lý tài sản. Trước hết, bằng các điều khoản trong hợp đồng tín dụng cũng như bằng các thủ tục đăng ký giao dịch đảm bảo, công chứng… ngân hàng phải chắc chắn xác lập được quyền của mình đối với tài sản khi xảy ra trường hợp khách hàng không trả được nợ. Các công việc này cần phải được tiến hành chính xác và đầy đủ, tránh những thiếu sót có thể ảnh hưởng đến quyền của ngân hàng đối với tài sản đảm bảo.
Bên cạnh đó, quản lý tình trạng của tài sản đảm bảo, kiểm tra đánh giá lại giá trị tài sản đảm bảo là một công việc không thể thiếu với cán bộ tín dụng. Ví dụ khi khách hàng có ý định tẩu tán, làm biến dạng tài sản lập tức phải phát hiện kịp thời và có các biện pháp phù hợp. Việc định giá chính xác giá trị tài sản đảm bảo cũng vô cùng cần thiết. Theo quy định của ngân hàng, giá trị khoản vay của doanh nghiệp được tính theo một tỷ lệ trên giá trị tài sản đảm bảo. Nếu không có sự định giá chuẩn xác, việc cho vay có thể vượt quá mức cho phép gây rủi ro cho ngân hàng. Tuy nhiên, công việc này hay bị sao nhãng và coi nhẹ gây những thiệt hại cho ngân hàng khi xảy ra tranh chấp. Các tài sản có thể tiến hành định giá lại giá trị định kỳ 6 tháng hoặc tối đa không quá 12 tháng/1 lần, riêng đối với các tài sản được xác định có
72
mức biến động lớn cần phải theo dòi thường xuyên và đánh giá lại đột xuất khi giá trị tài sản giảm mạnh (một số ngân hàng hiện nay có quy định khi giá trị tài sản giảm xuống quá 20% các bên sẽ phải tiến hành định giá lại ngay giá trị tài sản).
Một vấn đề nữa liên quan đến tài sản đảm bảo, đó là việc mua bảo hiểm. Đã có nhiều trường hợp cán bộ tín dụng không đôn đốc khách hàng mua bảo hiểm cho tài sản đảm bảo mà khi tài sản bị cháy, nổ, tai nạn… làm khó khăn cho doanh nghiệp, ảnh hưởng đến việc trả nợ cho ngân hàng.
Quyền sở hữu của khách hàng đối với tài sản cũng là một vấn đề đáng quan tâm nhất là trong tình hình hệ thống pháp luật về quyền sở hữu, đất đai ở nước ta còn nhiều bất cập.
Khi nhận tài sản đảm bảo, ngoài việc phải tuân thủ các quy định của Chính phủ và Ngân hàng nhà nước thì việc quan tâm đến chính sách về đất đai, về tiêu chuẩn công nghệ Việt Nam và quốc tế, thực tế công tác quy hoạch của địa phương và lợi thế của tài sản đảm bảo cũng rất quan trọng. Mỗi biến động về cơ chế, về quy hoạch hay chính sách của nhà nước liên quan đến bất động sản, xử lý về tài sản đảm bảo cần có định hướng chỉ đạo đúng đắn.
3.1.6 Giới hạn tín dụng đối với một số khách hàng
Việc hạn chế tín dụng có hai dạng:
Thứ nhất, là ngân hàng từ chối một khoản cho vay ngay cả khi doanh nghiệp sẵn lòng thanh toán với một lãi suất cao hơn. Những doanh nghiệp có dự án rủi ro nhất chắc chắn là những người sẵn lòng thanh toán lãi suất cao nhất. Do đó Ngân hàng cần nhận biết và hạn chế tín dụng đối với nhóm khách hàng này để hạn chế sự lựa chọn nghịch.
Thứ hai, Ngân hàng sẵn lòng cho vay nhưng hạn chế khoản cho vay đó dưới mức mà người vay mong muốn để đề phòng rủi ro đạo đức. Sự hạn chế này là cần thiết vì vấn đề rủi ro đạo đức trở nên nghiêm trọng hơn đối với lợi ích những món tiền cho vay lớn hơn. Nhiều khách hàng trả được nợ nếu số tiền mỗi món vay nhỏ. Vì vậy các ngân hàng hạn chế tín dụng bằng cách cho vay các món tiền nhỏ hơn là họ muốn vay lúc đầu.
73
Ví dụ : trong giai đoạn hiện nay cần hạn chế các khách hàng vay đầu tư xây dựng bất động sản để bán, cho thuê,…
3.1.7 Duy trì những mối quan hệ khách hàng
Một cách nữa để Ngân hàng thu được thông tin về doanh nghiệp là nhờ quan hệ khách hàng lâu dài. Nếu một doanh nghiệp có triển vọng vay tiền đã từng có lịch sử giao dịch với Ngân hàng qua một thời gian dài thì cán bộ tín dụng có thể nhìn vào hoạt động quá khứ và biết được về doanh nghiệp này. Như vậy, những quan hệ khách hàng lâu dài giảm được chi phí tập hợp thông tin và làm cho việc sàng lọc một cách dễ dàng những rủi ro tín dụng tốt và xấu.
Mối quan hệ khách hàng lâu dài còn có một lợi ích khác. Không một Ngân hàng nào có thể lường hết trước mọi sự bất ngờ đối với khoản tiền cho vay của mình. Tuy nhiên nếu những doanh nghiệp muốn gìn giữ quan hệ lâu dài với Ngân hàng để được các món vay với lãi suất ưu đãi, thì họ sẽ tránh những hoạt động có rủi ro để không làm phật lòng Ngân hàng. Do vậy, quan hệ khách hàng lâu dài giúp Ngân hàng đối phó với những sự bất ngờ rủi ro đạo đức mà ngay cả Ngân hàng cũng không lường trước được như ban đầu. Vì vậy Ngân hàng nên tham gia vào hoạt động điều hành và quản trị của các công ty. Những lợi ích của việc thiết lập quan hệ khách hàng lâu dài chỉ ra rằng sự gắn bó chặt chẽ hơn và có lợi hơn cho cả doanh nghiệp và Ngân hàng. Một cách để tạo ra những gắn bó chặt chẽ này đối với Ngân hàng đó là nắm giữ những cổ phần trong các công ty mà họ cho vay tiền và có những thành viên trong ban giám đốc các công ty này. Hiện nay chỉ có ở Nhật Bản và Đức là hai nước có những dàn xếp tài chính như vậy. Ở nước ta, các công ty đa số là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên Ngân hàng khó có thể tham gia vào hoạt động kinh doanh của công ty. Nhưng rò ràng nếu ngân hàng làm được điều này thì lợi ích sẽ rất lớn: mối quan hệ khách hàng lâu dài và mạnh mẽ giúp cho các Ngân hàng dễ tập hợp thông tin hơn và dễ giám sát hơn. Ngoài ra do Ngân hàng có một vai trò trong việc quản lí hoạt động của công ty nên họ có thể có thông tin kịp thời để lái công ty theo hướng ít rủi ro. Nhưng việc ngân hàng sở hữu cổ phần của công ty cần phải công bố về tỷ lệ sở hữu của mình và người có liên quan dù tỷ lệ sở hữu cổ phần lớn
74
hay nhỏ, hơn nữa cần phải có Cơ quan Nhà nước đồng ý và giám sát việc sở hữu này để tránh tình trạng sở hữu chồng chéo cổ phần.
Ngoài ra, ACB cũng đã thiết lập được nhiều mối quan hệ khách hàng thân thiết. Với phương châm “ luôn đồng hành cùng doanh nghiệp”, ngoài việc cho vay, ACB còn tư vấn cho doanh nghiệp phòng tránh rủi ro và định kì tới thăm cơ sở sản xuất để xem công ty có cần hỗ trợ về mặt tài chính nữa không và sẵn sàng tham mưu giúp đỡ. Điều này làm cho khách hàng tránh được rủi ro và làm mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng ngày càng thân thiết.
3.1.8 Ngân hàng cần minh bạch công bố thông tin
Ngoài việc yêu cầu các doanh nghiệp cần phải cung cấp thông tin minh bạch cho ngân hàng, ngân hàng cũng cần phải công bố thông tin liên quan đến mình để cho các doanh nghiệp cảm thấy yên tâm về nơi cung cấp nguồn vốn sản xuất kinh doanh của mình.
Nhờ sự công khai, minh bạch, rò ràng của ngân hàng mà định hướng doanh nghiệp cũng tốt hơn, người dân yên tâm hơn để “đối mặt với sự thật” dù còn bất cập, và nó cũng giúp các chuyên gia, các cơ quan quản lý nhà nước, các bộ ngành liên quan có giải pháp để chủ động ứng phó với tình hình.
Hơn nữa, sự kịp thời, minh bạch thông tin ngân hàng đã củng cố niềm tin của người dân và doanh nghiệp vào hệ thống ngân hàng cũng như công tác điều hành của cơ quan chức năng, đồng thời khiến cho các thông tin thiếu căn cứ, thông tin đồn thổi với mục đích trục lợi ít có cơ hội tung tác.
3.2 Về phía Chính phủ và Ngân hàng trung ương
3.2.1 Xây dựng và phát triển các tổ chức hỗ trợ thông tin bằng cách thành lập công ty xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp
Thứ nhất, mặc dù hiện nay ở Việt Nam một số tổ chức hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ thông tin đã hình thành, nhưng hiệu quả hoạt động chưa cao. Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) trực thuộc Ngân hàng nhà nước là một tổ chức hành chính sự nghiệp, thực hiện việc cung cấp thông tin tín dụng cho hệ thống ngân hàng.
75
Tuy nhiên, các thông tin do Trung tâm cung cấp vẫn chưa đảm bảo tính cập nhật và chính xác cao.
Để Trung tâm này hoạt động hiệu quả thì Ngân hàng nhà nước cần đưa ra các chế tài nhằm nâng cao trách nhiệm của các ngân hàng trong việc cung cấp thông tin về khách hàng có quan hệ tín dụng một cách kịp thời, đầy đủ và chính xác. Từ đó các ngân hàng thương mại có thể khai thác thông tin từ hệ thống này, làm cơ sở đánh giá năng lực và uy tín của khách hàng khi họ có nhu cầu vay vốn.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cần phải có chính sách tuyển chọn và đào tạo cán bộ làm công tác quản lý mạng CIC không chỉ am hiểu về công nghệ thông tin như khai thác thông tin qua mạng và các công cụ hỗ trợ khác mà còn phải có khả năng thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp và đưa ra những nhận định, cảnh báo thích hợp thay vì những con số báo cáo thống kê khô khan cho các ngân h à n g thương mại tham khảo.
Hiện nay, các ngân hàng chưa có sự hợp tác tích cực với CIC chủ yếu là do muốn giữ bí mật thông tin về khách hàng để cạnh tranh. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước nên có những biện pháp thích hợp để các ngân hàng nhận thức đúng đắn về quyền lợi và nghĩa vụ trong việc báo cáo và khai thác thông tin tín dụng từ CIC nhằm góp phần ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. Ngân hàng Nhà nước cần phải có biện pháp khuyến khích và đi dần đến quy định bắt buộc các ngân hàng thương mại hợp tác, cung cấp thông tin một cách đầy đủ cho trung tâm. Thanh tra Ngân hàng Nhà nước nên kiểm tra việc báo cáo, khai thác thông tin của các ngân hàng, đồng thời có biện pháp xử lý kiên quyết, kịp thời đối với những ngân hàng vi phạm chế độ báo cáo thông tin tín dụng như: báo cáo thiếu, báo cáo thông tin sai lệch. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cần phải có biện pháp khuyến khích các ngân hàng sử dụng thông tin tín dụng từ CIC như là một tài liệu bắt buộc phải có trong quá trình thẩm định cho vay.
Hiện tại ở Việt nam đã có Trung tâm tín dụng CIC của Ngân hàng Nhà nước và một số đơn vị khác như các công ty chứng khoán đã làm công tác xếp
76
loại khách hàng. Tuy nhiên để đảm bảo độ tin cậy, tổ chức này cần phải có các điều kiện sau ( các điều kiện này được nêu trong Hiệp ước Basel II )
- Tính khách quan: Phương pháp đánh giá tín dụng cần phải chặt chẽ, có hệ thống và phải căn cứ vào các số liệu quá khứ theo một phương pháp đánh giá nào đó. Ngoài ra, các kết quả đánh giá cần phải liên tục được rà soát và điều chỉnh kịp thời theo những thay đổi về tình hình tài chính. Để được các cơ quan chủ quản ngân hàng công nhận, phương pháp đánh giá đối với mỗi khu vực thị trường, trong đó có việc đối chiếu lại một cách chặt chẽ, cần phải được sử dụng trước đó ít nhất một năm và nên là ba năm
- Tính độc lập: Tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cần phải độc lập và không chịu các sức ép về kinh tế hoặc chính trị có thể ảnh hưởng đến kết quả đánh giá. Quá trình đánh giá càng ít bị ảnh hưởng bởi những mâu thuẫn về lợi ích có thể phát sinh do thành phần của hội đồng quản trị hoặc cơ cấu cổ đông của công ty gây ra càng tốt.
- Khả năng tiếp cận quốc tế/ Tính minh bạch: Các kết quả đánh giá cần được cung cấp cho các tổ chức trong và ngoài nước để sử dụng trong các mục đích hợp pháp và với các điều kiện cung cấp tương đương nhau. Ngoài ra, phương pháp luận chung để đánh giá tín dụng của các tổ chức đánh giá cần phải được công khai, hầu hết các dự án vay vốn từ WB hoặc ADB đều công khai trên web rò ràng phương pháp luận cụ thể để đánh giá một dự án, điều này sẽ tránh được những che đậy thông tin từ bên phía khách hàng đặt mục tiêu có nguồn tín dụng bằng mọi giá.
- Về việc cung cấp thông tin: Tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cần cung cấp các thông tin về phương pháp đánh giá, bao gồm các khái niệm về khả năng không trả được nợ, khoảng thời gian đánh giá, ý nghĩa của mỗi bậc xếp hạng; tỷ lệ không trả được nợ trong thực tế ứng với mỗi nhóm xếp hạng; và xu hướng thay đổi các kết quả đánh giá, ví dụ khả năng từ xếp hạng AA xuống xếp hạng A theo thời gian.
- Các nguồn lực: Một tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cần phải có đủ các nguồn lực cần thiết để thực hiện việc đánh giá với chất lượng cao. Các nguồn lực
77
này cho phép các tổ chức này tiếp xúc thường xuyên với cán bộ quản lý và nghiệp vụ tại các tổ chức đang được đánh giá tín dụng để bổ sung các thông tin quan trọng cho việc đánh giá tín dụng. Các kết quả đánh giá cần phải dựa trên sự kết hợp các phương pháp định tính và định lượng. Nguồn lực thẩm định tín dụng cũng nên làm việc theo nhóm, có nghĩa là bản thân ngân hàng cũng nên có những chuyên gia độc lập thẩm định từ phía nước ngoài nhằm áp dụng cho những dự án qui mô lớn.
- Tính tin cậy: Trong một chừng mực nhất định, độ tin cậy của các kết quả đánh giá đạt được nhờ các tiêu chí đã nêu trên. Ngoài ra, lòng tin của các tổ chức độc lập (nhà đầu tư, nhà bảo hiểm, các đối tác kinh doanh) đối với các kết quả đánh giá của một tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cũng là bằng chứng của độ tin cậy của các kết quả đánh giá này. Độ tin cậy của một tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cũng thể hiện ở việc các tổ chức này sử dụng các quy trình nội bộ nhằm tránh không cho các thông tin mật được sử dụng sai mục đích. Để được công nhận, một tổ chức đánh giá tín dụng độc lập không nhất thiết phải đánh giá các công ty ở hai quốc gia trở lên.
Thứ hai, ở các nước, xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp là hoạt động phổ biến nhưng ở Việt Nam, điều này vẫn khá mới mẻ.
Xếp hạng tín nhiệm là quan điểm đánh giá tổng hợp về mặt định tính và định lượng của một tổ chức độc lập đối với hoạt động kinh doanh, sức mạnh và khả năng tài chính của một công ty trên cơ sở nhận định về quá trình hoạt động, danh mục kinh doanh, bảng cân đối kế toán so sánh với các tiêu chuẩn số lượng và chất lượng mang tính quốc tế (của tổ chức đánh giá). Tổ chức đánh giá cũng xem xét đến các cam kết phát triển của doanh nghiệp trên mọi mặt. Đối với ngân hàng, đây là cơ sở để quản trị tín dụng nhằm giới hạn rủi ro ở mức mục tiêu và hỗ trợ trong việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, tiến tới mục đích tối đa hóa lợi nhuận. Vì tầm quan trọng như vậy của công ty xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp, NHTW sớm thành lập loại hình kinh doanh này để góp phần ổn định thị trường tín dụng hơn.
78