An toàn trong hoạt động cho vay vốn của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam - 2

Theo từ điển Bách khoa toàn thư đã định nghĩa: An toàn là sự yên ổn, không có những rủi ro gây thiệt hại không thể chấp nhận được; hay nói cách khác là tình trạng trong đó sự rủi ro gây nguy hại ở mức có thể chấp nhận được.

Theo TS. Vũ Đình Ánh2 cho rằng: An toàn là trạng thái không bị tác

động bởi các nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Và chỉ khi có các công cụ và các biện pháp bảo vệ hợp lý thì mới đảm bảo được tình trạng an toàn đó.

Như vậy, có thể nói an toàn là một khái niệm để chỉ trạng thái mà ở đó các rủi ro có thể chấp nhận được dựa trên các công cụ quản lý thích hợp. Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, nghiệp vụ cho vay vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất nhưng đồng nghĩa với việc cũng đem lại lợi nhuận lớn hơn cả. Để ngân hàng hoạt động có vững mạnh thì quan trọng là phải đảm bảo vốn cho vay phải được sử dụng có hiệu quả và các doanh nghiệp, cá thể đi vay phải hoàn vốn đúng thời hạn. Hay nói cách khác ngân hàng cần phải đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay vốn dựa trên những công cụ quản lý rủi ro, có như vậy toàn bộ hệ thống mới lành mạnh và phát triển. Có nhiều định nghĩa về an toàn trong hoạt động cho vay vốn:

Trong tài liệu ’ Commercial Bank Financial Management’’, Joseph F.Sinkey (2002) cho rằng : Hoạt động cho vay vốn được cho là an toàn khi khách hàng có khả năng hoàn trả đầy đủ khoản tín dụng đã vay từ ngân hàng cả về số lượng và thời hạn.

Còn theo Frank Stern (1999) - Bank Management, Chicago University lại cho rằng : An toàn trong hoạt động cho vay đồng nghĩa với việc ngân hàng cần quản lý được các rủi ro xảy ra tổn thất do không trả được một phần hay toàn bộ số nợ của khách hàng. Khi đó người đi vay có thể chi trả


2 TS. Vũ Đình Ánh (2002), An ninh tài chính đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng, NXB Tài Chính.

tiền lãi hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời hạn đã được ấn định trong hợp đồng.

Như vậy có thể hiểu: An toàn trong hoạt động cho vay là việc đảm bảo lợi ích của ngân hàng nhằm duy trị sự ổn định và phát triển của toàn bộ hệ thống trên cơ sở nâng cao khả năng thanh toán, hạn chế rủi ro vỡ nợ của khách hàng. Có như vậy ngân hàng mới hoạt động có hiệu quả, góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung.

1.2.2. Sự cần thiết phải đảm bảo an toàn đối với các khoản cho vay của

Ngân hàng thương mại

Một trong những lý do cơ bản để ngân hàng được các cơ quan quản lý nhà nước cấp phép hoạt động là khả năng cho vay đối với khách hàng3. Mọi người mong muốn các ngân hàng hỗ trợ cho sự phát triển của cộng đồng địa phương thông qua việc cung cấp tín dụng, đáp ứng nhu cầu tài chính của doanh nghiệp và của người tiêu dùng với một mức lãi suất hợp lý. Rõ ràng, cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng – để tài trợ cho chi tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan chính phủ. Hoạt động cho vay của ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục vụ bởi vì cho vay thúc đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Hơn nữa, thông qua các khoản cho vay của ngân hàng, thị trường sẽ có thêm thông tin về chất lượng tín dụng của từng khách hàng và nhờ đó giúp cho họ có khả năng nhận thêm các khoản tín dụng mới từ những nguồn khác với chi phí thấp hơn.

Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa gía trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng. Đồng thời, rủi ro hoạt động ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản cho vay. Tình trạng khó khăn về tài chính của một ngân hàng thường phát sinh từ các khoản cho vay khó đòi, bắt đầu từ một số nguyên nhân do: quản lý

3 Peter Rose (1994), Comercial Bank Management, Taxes A&M University

yếu kém, cho vay không tuân thủ nguyên tắc tín dụng, chính sách cho vay không hợp lý và tình trạng suy thoái ngoài dự kiến của nền kinh tế. Chính vì vậy quản trị rủi ro đối với các khoản cho vay giữ vai trò quan trọng trong hoạt động của các ngân hàng, nó là cơ sở và nền tảng để ngân hàng phát triển và ổn định tình hình tài chính với một số nội dung sau:

Thứ nhất: Đảm bảo an toàn các khoản cho vay tạo điều kiện cho các ngân hàng duy trì nguồn vốn và tạo ra lợi nhuận do hoạt động kinh doanh vốn đem lại.

Một trong những mục tiêu quan trọng trong hoạt động và quản trị ngân hàng là mục tiêu bảo toàn và phát triển vốn vì ngân hàng là trung tâm tín dụng, trung tâm thanh toán vì vậy có bảo toàn được vốn thì mới đảm bảo khả năng cung cấp tín dụng và thanh toán các khoản tiền gửi của khách hàng. Một trong những điều kiện quan trọng để ngân hàng bảo toàn vốn, đảm bảo an toàn tài sản là nâng cao chất lượng tín dụng trong đó việc quản lý rủi ro đối với các khoản cho vay là nhân tố có tác động mạnh mẽ và ảnh hưởng nghiêm trọng tới quá trình hoạt động của bất kỳ ngân hàng thương mại nào.

Thứ hai: Đảm bảo an toàn đối với các khoản cho vay vốn thì mới nâng cao hiệu quả trong hoạt động của Ngân hàng.

Nghiệp vụ cho vay vốn đóng vai trò quan trọng số một trong hoạt động tín dụng của mỗi ngân hàng, nếu không đảm bảo an toàn các khoản cho vay thì sẽ dẫn đến rủi ro, nợ quá hạn phát sinh và làm cho chi phí của các ngân hàng tăng lên, hiệu quả sử dụng vốn giảm, lợi nhuận bị suy giảm và ảnh hưởng trực tiếp tới năng lực tài chính và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.

Thứ ba: Đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay vốn là điều kiện để ngân hàng thương mại đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế quốc dân.

Trong giai đoạn hiện nay, tín dụng ngân hàng đang giữ vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế, là kênh dẫn vốn thứ hai cho nền kinh tế sau kênh Ngân sách nhà nước. Do đó đảm bảo an toàn đối với

hoạt động cho vay vốn càng trở nên quan trọng để đảm bảo sự luân chuyển vốn trong nền kinh tế vì khi rủi ro có khả năng xảy ra đối với các khoản nợ của khách hàng có thể dẫn đến dòng vốn chu chuyển sẽ bị ngừng trệ từ đó ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển của toàn bộ nền kinh tế.

Thứ tư: Là điều kiện để phát triển ổn định nền kinh tế và thực thi các chính sách vĩ mô của Nhà nước.

Hoạt động cho vay vốn của ngân hàng có tác động tổng hợp đến nhiều đối tượng trong nền kinh tế. Nếu đối với các khoản vốn cho vay không có khả năng hoàn trả thì sẽ dẫn đến rủi ro thanh toán, rủi ro tín dụng…có thể kéo theo sự sụp đổ của cả hệ thống ngân hàng thậm chí cả thị trường tài chính của một quốc gia và khi đó sẽ kéo theo sự khủng hoảng của một nền kinh tế. Thông qua chính sách hỗ trợ các nguồn vốn cho vay, chính sách kinh tế của Nhà nước được thực thi và áp dụng vào thực tiễn một cách linh hoạt, hiệu quả.

1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá an toàn trong hoạt động cho vay vốn của Ngân

hàng thương mại

* Chỉ tiêu định lượng4

Chỉ tiêu 1: Tỷ lệ đảm bảo tiền vay (A1.1)


A1.1 (%) =

Dư nợ vay (Doanh số cho vay)

x 100%

Giá trị tài sản đảm bảo

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 64 trang tài liệu này.

An toàn trong hoạt động cho vay vốn của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam - 2


Ý nghĩa: chỉ tiêu A1.1 phản ánh mức độ bù đắp khi những rủi ro xảy ra, đây là nguồn thu nợ thứ 2 của các Ngân hàng thương mại. Thông thường thì các ngân hàng cho vay bằng 70% giá trị tài sản đảm bảo.

- Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ nợ quá hạn (A1.2)


A1.2 (%) =

Tổng nợ quá hạn

x 100%

Tổng dư nợ



4 Nguyễn Minh Kiều (2008), Tín dụng và thẩm định tín dụng ngân hàng, NXB Tài chính.

Ý nghĩa: Chỉ tiêu A1.2 là chỉ tiêu định lượng quan trọng nhất nhằm xác định chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại. Trong đó nợ quá hạn được phân thành các nhóm nợ theo quyết định 493/2005/NHNN.

- Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ nợ xấu (A1.3)


A1.3 (%) =

Nọ xấu

x 100%

Tổng dư nợ

Ý nghĩa: Chỉ tiêu A1.3 phản ánh các khoản cho vay có khả năng không thu hồi được một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và lãi. Để đánh giá đúng cần tính tỷ lệ của từng loại nợ xấu so với tổng dư nợ.

- Chỉ tiêu 4: Tỷ lệ nợ quá hạn ròng (A1.4)


A1.4 (%) =

Nợ quá hạn – DPRR tín dụng

x 100%

Tổng dư nợ - DPRR tín dụng

Ý nghĩa: Chỉ tiêu A1.4 đánh giá chất lượng tín dụng khi đã sử dụng các quỹ dự phòng rủi ro tín dụng để bù đắp cho các khoản nợ quá hạn của Ngân hàng.

- Chỉ tiêu 5: Tỷ lệ nợ xấu ròng (A1.5)


A1.5(%) =

Nợ xấu – DPRR tín dụng

x 100%

Tổng dư nợ - DPRR tín dụng

Ý nghĩa : Chỉ tiêu A1.5 đánh giá chất lượng tín dụng sau khi đã sử dụng quĩ rủi ro tín dụng để bù đắp cho nợ xấu của ngân hàng.

- Chỉ tiêu 6: Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro (A1.6)


A1.6 (%) =

DPRR tín dụng

x 100%

Tổng dư nợ/ tổng dư nợ trích lập dự phòng

Ý nghĩa: chỉ tiêu A1.6 phản ánh khả năng bù đắp rủi ro từ hoạt động tín dụng, nhằm phản ánh chính xác khi tính toán chỉ tiêu này cần đánh giá chi tiết đối với từng loại nợ cho vay.

- Chỉ tiêu 7: Khả năng chống đỡ với rủi ro (A1.7)


A1.7 (%) =

Tổng nợ quá hạn/ Nợ xấu

x 100%

Tổng nguồn vốn/ Tổng mức dự phòng


Ý nghĩa: Chỉ tiêu A1.7 phản ánh mức độ chống đỡ với rủi ro của ngân hàng tại một thời điểm nhất định để từ đó có sự điều chỉnh hợp lý và đưa ra các giải pháp khắc phục kịp thời.

* Các chỉ tiêu định tính :

- Đảm bảo và tuân thủ các nguyên tắc cho vay theo quyết định 1627/QĐ-NHNN có ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo sự tuân thủ các qui định của pháp luật về hoạt động tín dụng, bảo đảm sử dụng tiền vay đúng mục đích, mang lại hiệu quả kinh tế, thanh toán đầy đủ nợ gốc và lãi khi đến hạn.

- Đảm bảo thực hiện đúng qui chế, tuân thủ các qui định về tỷ lệ an toàn trong hoạt động và thực hiện trích lập dự phòng theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005. Việc thực hiện đúng qui chế đảm bảo tiền vay giúp ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ 2 và giảm thiểu được rủi ro trong trường hợp phương án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro, đồng thời cũng nâng cao trách nghiệm của khách hàng trong việc sử dụng vốn vay.‌

- Đảm bảo các tỷ lệ an toàn trong hoạt động tín dụng ngân hàng theo quyết định 457/QĐ-NHNN. Việc đảm bảo đúng các tỷ lệ về đảm bảo an toàn trong hoạt động giúp các ngân hàng tuân thủ đúng các chuẩn mực kế toán, và nâng cao khả năng tự chủ về tài chính của các Ngân hàng thương mại.

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự an toàn trong hoạt động cho vay vốn

1.3.1. Nhân tố thuộc phía ngân hàng

Chất lượng các khoản cho vay của ngân hàng: là sự đáp ứng các yêu cầu của khách hàng phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của ngân hàng. Nó phản ánh năng lực tài chính và sự sẵn sàng của ngân hàng trong việc đáp ứng các nhu cầu của khách hàng. Việc đảm bảo cung cấp vốn kịp thời đầy đủ cũng là điều kiện để phương án kinh

doanh của khách hàng được thực hiện một cách hiệu quả và là điều kiện để đảm bảo khả năng chi trả của các khoản vay đó.

Tăng trưởng, ổn định nguồn vốn: Mỗi ngân hàng cần hoạch định cho mình kế hoạch tăng trưởng phù hợp để đảm bảo an toàn và nằm trong khả năng kiểm soát. Nếu vì lý do cạnh tranh, áp lực mở rộng mạng lưới mà phát triển quá nóng sẽ dẫn đến nguy cơ mất an toàn trong hoạt động. Đồng thời mỗi ngân hàng cần ổn định nguồn vốn để đảm bảo khả năng cung ứng vốn cho khách hàng kịp thời và đầy đủ.

Cân đối về thời hạn của vốn huy động và các khoản cho vay : Trên nguyên tắc chung là thời hạn cho vay phụ thuộc vào thời hạn của nguồn vốn. Việc cân đối này không được đảm bảo sẽ dẫn đến tình trạng vốn được sử dụng kém hiệu quả hoặc đe dọa đến khả năng thanh toán của ngân hàng. Do đó các ngân hàng cần xem xét đến khả năng nguồn vốn của mình để có chính sách cho vay hiệu quả.

Tổ chức bộ máy quản lý chính sách tín dụng và qui trình tín dụng : Sự đánh giá và phân loại không chính xác về năng lực tài chính của khách hàng hoặc chỉ đánh giá thông qua các chỉ tiêu tĩnh, một chiều mà không quan tâm đến thông tin khác…hay việc cho vay dựa trên những cam kết không chắc chắn, hiệu suất dự án thu về không cao. Tất cả các yếu tố trên đều dẫn đến sự mất an toàn trong các phán quyết cho vay. Do đó qui trình thực hiện các giải pháp an toàn trong hoạt động cho vay cần phải được các ngân hàng hết sức quan tâm và linh hoạt.

Mô hình quản lý rủi ro và trình độ quản trị điều hành của bộ máy quản lý ngân hàng: Đây là nhân tố chủ quan từ phía ngân hàng, để đảm bảo an toàn trong hoạt động, mỗi ngân hàng cần phải xây dựng một mô hình quản lý rủi ro phù hợp, thành lập và duy trì hoạt động có hiệu quả của hội đồng quản lý tài sản nợ, dần áp dụng mô hình quản lý rủi ro theo BASEL II trong các hoạt động ngân hàng.

Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động cho vay: bao gồm hệ thống thông tin, hệ thống hỗ trợ tín dụng, mạng lưới và một số điều kiện khác. Một ngân hàng có hệ thống thông tin tốt, khả năng khai thác và cập nhật thông tin cao, cơ sỏ vật chất đầy đủ sẽ tạo được hình ảnh và uy tín tốt với khách hàng. Thông qua việc khai thác các luồng thông tin khác nhau sẽ là điều kiện để ra các quyết định phù hợp nhằm hạn chế rủi ro và đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay vốn.

1.3.2. Nhân tố từ phía khách hàng

Khách hàng là điều kiện rất quan trọng trong việc đảm bảo an toàn đối với các khoản tiền cho vay. Khách hàng phải có năng lực pháp lý, năng lực tài chính, có phương án kinh doanh khả thi và có uy tín trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì mới được xem xét để cung cấp tín dụng. Ngược lại nếu một khách hang chưa đủ năng lực pháp lý và năng lực tài chính, có tư cách đạo đức không tốt và chưa tạo được uy tín trong kinh doanh thì sẽ rất khó khăn và không có gì đảm bảo để ngân hàng có thể xem xét cung cấp tín dụng.

Khi xem xét khách hàng để cho vay vốn thì điều mà mỗi ngân hàng quan tâm là khách hàng phải có phương án kinh doanh khả thi và phải có tỷ lệ vốn đối ứng nhất định để tham gia vào phương án đó. Khi đã có phương án kinh doanh khả thi thì bản thân khách hàng cũng dự đoán được nhu cầu vốn và khả năng thu hồi vốn của dự án nên họ sẽ tự tin thực hiện dự án, điều này sẽ đảm bảo an toàn hơn cho cả khách hàng và phía ngân hàng. Một phương án sản xuất kinh doanh khả thi là phương án mang lại hiệu quả kinh tế, phù hợp với pháp luật và yêu cầu của thị trường. Phương án kinh doanh khả thi sẽ đảm bảo khả năng trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng đúng hạn.

Một điều kiện quan trọng nữa từ phía khách hàng vay vốn là phải có tài sản đảm bảo, tài sản đảm bảo không phải là điều kiện để xem xét cho vay nhưng nó là nguồn thu nợ thứ hai và là điều kiện để nâng cao trách nhiệm của khách hàng trong việc sử dụng vốn. Trong quan hệ cho vay, ngân hàng đòi

hỏi có sự đảm bảo thông qua các hình thức thế chấp, cầm cố và bảo lãnh của bên thứ ba. Tỷ lệ cho vay không chỉ phụ thuộc vào giá trị tài sản mà còn phụ thuộc vào tính lỏng của tài sản đảm bảo. Việc đánh giá tài sản đảm bảo cũng là một phần của công tác kiểm soát và đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay vốn.

Ngoài các yếu tố cần xem xét từ khách hàng thì việc xem xét khả năng lãnh đạo, bộ máy tổ chức của khách hàng là điều hết sức quan trọng vì nếu dự án có khả thi bao nhiêu, năng lực tài chính vững mạnh và tài sản đảm bảo tiền vay đầy đủ nhưng đội ngũ quản lý doanh nghiệp không có khả năng tổ chức và điều hàng, bộ máy quản lý không phù hợp thì cũng không thể đảm bảo an toàn cho khoản vốn đã vay.

1.3.3. Các nguyên nhân khách quan liên quan đến môi trường bên ngoài

Môi trường kinh tế xã hội là nhân tố tác động rất lớn tới đảm bảo khả năng trả nợ của khách hàng. Kinh tế, chính trị ổn định sẽ tạo điều kiện cho hàng hóa lưu thông, thúc đẩy sản xuất phát triển và là điều kiện để các luồng tài chính chuyển dịch một cách thường xuyên liên tục. Là điều kiện để các doanh nghiệp ổn định và phát triển sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, nâng cao khả năng hoàn trả cho ngân hàng.

Đường lối phát triển kinh tế chính sách hỗ trợ doanh nghiệp của nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến qui mô của các khoản cho vay. Trong nền kinh tế như Việt Nam hiện nay, khi mà các doanh nghiệp tồn tại chủ yếu dưới hình thức chủ thể do Nhà nước quản lý thì việc tác động của chính phủ đối với các ngân hàng thương mại nhằm cho các DNNN vay vốn sẽ ảnh hưởng nhiều đến việc đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng. Trong khi các DNNN là bộ phận khách hàng có thực lực tài chính kém, không có khả năng thanh toán khi đến hạn rất dễ gây nên rủi ro cho hệ thống ngân hàng. Do đó cần phải xây dựng một chính sách phù hợp kết hợp với sự đồng bộ trong hành lang pháp lý nhằm bảo vệ các ngân hàng thương mại khi có xảy ra tổn thất đối với nguồn

vốn cho vay. Có như vậy các ngân hàng mới hoạt động được vững mạnh và hiệu quả.‌

1.4. Các mô hình lượng hóa các rủi ro đối với hoạt động cho vay

Để đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay vốn, các ngân hàng cần phải quản trị để hạn chế rủi ro khả năng vỡ nợ của khách hàng. Do đó các kỹ thuật đo lường, đánh giá của ngân hàng đối với mỗi khách hàng về mức độ đáng tin cậy trong việc đảm bảo hoàn trả vốn vay là thật sự cần thiết. Chỉ trên cơ sở định lượng được những rủi ro có thể xảy ra đối với khoản cho vay, khi đó ngân hàng mới có những quyết định và chính sách cho vay phù hợp. Và hiện nay trên thế giới, có hai mô hình được sử dụng phổ biến nhất nhằm chấm điểm, xếp hạng khách hàng nhằm đảm bảo an toàn đối với khoản vay bao gồm:

1.4.1. Mô hình định tính 6C

Một trong những tính chất cơ bản của tài chính hiện đại là tính rủi ro, và vì vậy tất cả các mô hình tài chính hiện đại đều được đặt trong môi trường rủi ro. Để quản trị được rủi ro có khả năng xảy ra đối với khoản cho vay, các ngân hàng cần phải trả lời được câu hỏi trước tiên là khách hàng có thể thanh toán được khoản vay được đúng hạn hay không? Một số mô hình đã được xây dựng để làm công cụ đo lường khả năng trả nợ của khách hàng, khi đó ngân hàng sẽ có những đánh giá và giám sát việc cho vay một cách hiệu quả hơn. Có một mô hình định tính mà hiện nay các ngân hàng trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng đều thực hiện là nghiên cứu chi tiết sáu khía cạnh của một đơn vị xin vay bao gồm (Phụ lục 1):

- Tư cách người vay (Character): Ngân hàng cần có những bằng chứng cho thấy rằng khách hàng có mục tiêu rõ ràng khi xin vay và có kế hoạch trả nợ nghiêm túc. Bên cạnh đó cần phải xem xét đến sự phù hợp với chính sách cho vay hiện tại của ngân hàng để có những quyết định chính xác trong việc nâng cao khả năng thanh khoản hay hạn chế rủi ro tín dụng, rủi ro

tỷ giá…Trách nhiệm, tính trung thực, mục đích vay vốn nghiêm túc, kế hoạch trả nợ rõ ràng là những tiêu chuẩn tạo dựng lên tính cách của khách hàng.

- Năng lực của người vay (Capacity): Ngân hàng cần phải chắc chắn rằng khách hàng có đủ năng lực vay vốn và có đủ tư cách pháp lý trong việc ký kết hợp đồng vay vốn. Hợp đồng tín dụng do một người không có đủ tư cách pháp lý ký kết có thể dẫn đến một khoản cho vay không thể thu hồi và bởi vậy sẽ tạo ra một tổn thất rất lớn đối với ngân hàng.

- Thu nhập của người vay (Cashflow): Đây là nội dung có ý nghĩa rất quan trọng đối với một yêu cầu xin vay và thường tập trung vào câu hỏi: liệu người vay có khả năng tạo ra một dòng tiền mặt đủ lớn để đáp ứng yêu cầu hoàn trả cho ngân hàng món vay không? Thông thường khách hàng có ba nguồn có thể được sử dụng để hoàn trả khoản vay : (a) Dòng tiền mặt từ doanh thu bán hàng hoặc thu nhập; (b) dòng tiền từ việc bán tài sản; (c) các nguồn vốn huy động bằng cách phát hành nợ hay chứng khoán vốn trong đó ngân hàng quan tâm hơn cả đến dòng tiền có được từ hoạt động kinh doanh của người đi vay.

- Bảo đảm tiền vay (Collateral): Việc thế chấp hay cầm cố tài sản cố định, giấy tờ có giá…của người đi vay sẽ hạn chế rủi ro, nâng cao khả năng thu hồi vốn cho ngân hàng trong bất cứ hoàn cảnh nào. Đây là một cơ sở đảm bảo giúp ngân hàng thu hồi lại được khoản vốn cho vay khi khách hàng không hoàn trả theo đúng hợp đồng tín dụng.

- Các điều kiện (Conditions): Các cán bộ tín dụng cần phải nhận biết được xu hướng tiến triển gần đây của hãng cũng như của ngành mà hãng hoạt động, thấy được mức độ tác động của những thay đổi trong nền kinh tế đối với khoản cho vay.

- Kiểm soát (Control): Nhân tố cuối cùng trong việc đánh giá độ tin cậy của một khách hàng là sự kiểm soát, nó tập trung vào các câu hỏi như: liệu những thay đổi về quy định có ảnh hưởng bất lợi đến người vay không và

liệu khách hàng có đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng tín dụng do các cơ quan quản lý ngân hàng đặt ra không?

1.4.2. Mô hình định lượng

1.4.2.1. Mô hình điểm số Z của Edward I.Altman

Chỉ số Z được xây dựng bởi Edward I. Altman (1968), Đại Học New York, dựa vào việc nghiên cứu khá công phu trên số lượng lớn các công ty khác nhau tại Mỹ. Chỉ số Z là công cụ được cả hai giới học thuật và thực hành, công nhận và sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Chỉ số Z bao gồm 5 tỷ số X1, X2, X3, X4, X5. Trong đó:

-X1: tỷ số “vốn lưu động ròng/tổng tài sản”

-X2: tỷ số “lợi nhuận tích lũy/tổng tài sản”

-X3: tỷ số “lợi nhuận trước thuế và lãi/tổng tài sản

-X4: tỷ số “thị giá cổ phiếu/giá trị ghi sổ của nợ dài hạn”

-X5: tỷ số “doanh thu/tổng tài sản”

Từ một chỉ số Z ban đầu, Altman phát triển thêm Z' và Z" để có thể áp dụng theo từng loại hình của doanh nghiệp:

* Đối với doanh nghiệp đã cổ phần hoá, ngành sản suất:

Z = 1.2X1 + 1.4X2 + 3.3X3 + 0.64X4 + 0.999X5

-Nếu Z >2.99: Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy cơ phá sản

-Nếu 1.8< Z <2.99: Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể có nguy cơ phá sản

-Nếu Z <1.8: Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ phá sản cao.

* Đối với doanh nghiệp chưa cổ phần hoá, ngành sản suất:

Z' = 0.717X1 + 0.847X2 + 3.107X3 + 0.42X4 + 0.998X5

-Nếu Z'> 2.9: Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy cơ phá sản

-Nếu 1.23 < Z' < 2.9: Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể có nguy cơ phá sản

-Nếu Z' <1.23: Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ phá sản cao.

* Đối với các doanh nghiệp khác:

Chỉ số Z" dưới đây có thể được dùng cho hầu hết các ngành, các loại hình doanh nghiệp. Vì sự khác nhau khá lớn của X5 giữa các ngành, nên X5 được đưa ra.

Z" = 6.56X1 + 3.26X2 + 6.72X3 + 1.05X4

-Nếu Z">2.6: Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy cơ phá sản

-Nếu 1.2 < Z" < 2.6: Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể có nguy cơ phá sản

-Nếu Z <1.1: Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ phá sản cao.

Dựa trên việc đánh giá nguy cơ hoạt động của các doanh nghiệp mà ngân hàng mới có thể phân tích kế hoạch cho vay và các biện pháp nhằm quản trị rủi ro để tăng cường khả năng thanh toán khi đến hạn.

1.4.2.2. Mô hình xếp hạng của Fitch, Moody và Standard & Poor

Bên cạnh việc đánh giá rủi ro đối với khách hàng bằng chỉ số Z của Edward I. Altman, các ngân hàng còn thường xem xét nhận định cho vay thông qua việc xếp hạng trái phiếu và khoản cho vay do các tổ chức xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp có tiếng như Moody và Standard & Poor thực hiện. Moody và Standard & Poor xếp hạng trái phiếu và khoản cho vay theo 9 hạng theo chất lượng giảm dần, trong đó 4 hạng đầu ngân hàng nên cho vay, còn các hạng sau thì không nên đầu tư, cho vay.

Đối với Moody xếp hạng cao nhất từ Aaa nhưng với Standard & Poor thì cao nhất là AAA. Việc xếp hạng giảm dần từ Aa (Moody) và AA (Standard & Poor) sau đó thấp dần để phản ánh rủi ro không được hoàn vốn cao (Xem phụ lục 2, 3). Trong đó, chứng khoán (khoản cho vay) trong 4 loại đầu được xem như loại chứng khoán (cho vay) mà ngân hàng nên đầu tư, còn các loại chứng khoán (khoản cho vay) bên dưới được xếp hạng thấp hơn thì ngân hàng không đầu tư (không cho vay). Nhưng thực tế vì phải xem xét mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa rủi ro và lợi nhuận nên những chứng khoán (khoản cho vay) tuy được xếp hạng thấp (rủi ro không hoàn vốn cao) nhưng lại co lợi nhuận cao nên đôi lúc ngân hàng vẫn chấp nhận đầu tư vào các loại chứng khoán (cho vay) này.

Bên cạnh đó thì Moody còn đưa ra các mô hình để đánh giá rủi ro tín dụng của công ty. Theo mô hình này, Moody sẽ xếp hạng tình trạng hoạt động của doanh nghiệp dựa trên tỷ lệ rủi ro hàng năm, chất lượng xếp hạng cũng thay đổi hàng năm. Moody phân chia tỷ lệ rủi ro hàng năm từ 0 đến 8%. Những doanh nghiệp có xếp hạng cao khi tỷ lệ rủi ro dưới 0,1%. Các doanh nghiệp khác có xếp hạng thấp hơn khi tỷ lệ rủi ro từ 0,2 đến 8%.

Bảng 1.1. Xếp hạng theo mô hình Moody


Xếp hạng

Tình trạng

Tỷ lệ rủi ro hàng năm

Aaa

Chất lượng cao nhất

0,02%

Aa

Chất lượng cao

0,04%

A

Chất lượng khá

0,08%

Baa

Chất lượng vừa

0,2%

Ba

Nhiều yếu tố đầu cơ

1,8%

B

Đầu cơ

8,3%

Nguồn: Tạp chí khoa học và Đào tạo ngân hàng, số 8-2005, tr 39

Như vậy, thông qua sự đánh giá của các tổ chức xếp hạng tín dụng độc lập nổi tiếng như Moody‟s, Standard & Poor‟s hay Fitch đối với các cá thể, đơn vị đi vay mà mỗi ngân hàng sẽ kiểm soát được rủi ro về khả năng thanh toán của khách hàng để từ đó có các chính sách cho vay phù hợp.

1.5. Nguyên tắc Basel nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay vốn

Ủy ban Basel về giám sát Ngân hàng là một ủy ban bao gồm các chuyên gia giám sát hoạt động ngân hàng được thành lập vào năm 1975 bởi các Thống đốc Ngân hàng Trung ương của nhóm G10 (Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản, Hà Lan, Thụy Điển, Vương quốc Anh và Mỹ). Ủy ban tổ chức họp thường niên tại trụ sở Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) tại Washington (Mỹ) hoặc tại Thành phố Basel (Thụy Sĩ).

Như vậy từ chỗ là diễn đàn trao đổi kinh nghiệm, hợp tác quốc tế về thanh tra và giám sát ngân hàng, Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng ngày nay đã trở thành cơ quan xây dựng và phát triển các chuẩn mực ngân hàng được quốc tế công nhận. Ủy ban Basel đã ban hành 17 nguyên tắc về quản lý nợ xấu mà thực chất là đưa ra các nguyên tắc trong quản trị rủi ro tín dụng, đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động cấp tín dụng. Các nguyên tắc này tập trung vào các nội dung cơ bản sau đây:

-Xây dựng môi trường tín dụng thích hợp (3 nguyên tắc): trong nội dung này, Ủy ban Basel yêu cầu Hội đồng quản trị phải thực hiện phê duyệt định kỳ chính sách rủi ro tín dụng, xem xét rủi ro tín dụng và xây dựng một chiến lược xuyên suốt trong hoạt động của ngân hàng (tỷ lệ nợ xấu, mức độ chấp nhận rủi ro…). Trên cơ sở này, Ban Tổng giám đốc có trách nhiệm thực thi các định hướng này và phát triển các chính sách, thủ tục nhằm phát hiện, đo lường, theo dõi và kiểm soát nợ xấu trong mọi hoạt động, ở cấp độ của từng khoản tín dụng và cả danh mục đầu tư.

-Thực hiện cấp tín dụng lành mạnh (4 nguyên tắc): Ngân hàng cần xây dựng các hạn mức tín dụng cho từng loại khách hàng vay vốn và nhóm

Xem tất cả 64 trang.

Ngày đăng: 16/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí