- Nghiên cứu áp phân loại nợ dựa trên cơ sở rủi ro và trích dự phòng rủi ro theo các chuẩn mực quốc tế để nâng cao uy tín của ngân hàng.
Ngoài ra để nâng cao khả năng thanh khoản các NHTM CP cần tăng cường quản lý rủi ro ngoại hối, tập trung quản lý trạng thái ngoại hối ròng trên vốn tự có đạt tỷ lệ 20% theo quy định NHNN (Thông tư 07/2012/TT-NHNN ) Việc quản lý rủi ro ngoại hối cần chú ý kiểm soát hạn mức trạng thái mở và hạn mức ngăn lỗ cho các nhân viên giao dịch ngân hàng, hạn mức giao dịch với các đối tác, đồng thời sử dụng các công cụ tài chính có khả năng phòng ngừa rủi ro ngân quỹ thường xuyên.
Đối với các dịch vụ mới như chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, thẻ tín dụng, bảo lãnh ngân hàng, thấu chi, các sản phẩm phái sinh từ bảo hiểm, chứng khoán, đầu tư cũng cần hoàn thiện theo hướng an toàn, tiện ích, hiệu quản cho ngân hàng lẫn khách hàng.
Riêng về lãi suất và phí cần điều chỉnh phù hợp với cung cầu của thị trường dịch vụ ngân hàng ở Việt Nam. Trong đó:
- Về lãi suất: tuân thủ, linh hoạt phù hợp với cung và cầu vốn trong từng thời kỳ và đảm bảo lãi suất dương (+) trong kinh doanh.
- Về phí dịch vụ: cần tính toán thu phí sao cho hợp lý để khuyến khích khách hàng sử dụng, có tính đến rủi ro [1,2].
3.2.3.4. Nâng cao chất lượng tài sản NHTM CP
Nâng cao chất lượng tài sản NHTM CP liên quan đến rất nhiều vấn đề khác nhau bởi hoạt động của NHTM là một hoạt động phức hợp và tổng hòa các quan hệ nội tại ngân hàng. Trong phạm vi nghiên cứu tác giả đề nghị nâng cao chất lượng tài sản NHTM CP như sau:
- Một là, các NHTM CP phải củng cố và nâng cao chất lượng tài sản có
Có thể bạn quan tâm!
- Chiến Lược Phát Triển Ngành Ngân Hàng Việt Nam Đến Năm 2020
- Hội Đồng Quản Trị Tập Đoàn Và Các Hội Đồng/ Ủy Ban Trực Thuộc
- Hoàn Thiện Cơ Cấu Tổ Chức, Bộ Máy Quản Lý Và Phát Triển Nhân Lực
- Các Giải Pháp Khác Về Quản Trị Chung Hoạt Động Nhtm Cp
- Một Số Đề Xuất Nhằm Thúc Đẩy Việc Hình Thành Tập Đoàn Tc-Nh
- Thừa Nhận Sự Tồn Tại Phát Triển Khách Quan Của Mô Hình Tập Đoàn Tc-Nh Và Tăng Cường Cơ Chế Giám Sát Thông Qua Việc Hoàn Thiện Các Quy Định, Quy
Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.
Trong quản lý tài sản có một mặt NHTM CP phải tôn trọng các tỷ lệ dự trữ bắt buộc và hệ số an toàn vốn mà theo quy định, ngày 20/5/2010 NHNN Việt
Nam ban hành Thông tư số 13/2010/TT-NHNN, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của NHTM từ 8% lên 9% giữa vốn tự có so với tổng tài sản "Có" rủi ro của TCTD (tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ). Ngoài việc duy trì tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ theo quy định nói trên, TCTD phải đồng thời duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% trên cơ sở hợp nhất vốn, tài sản của TCTD và công ty trực thuộc (tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất). Đây cũng nhằm từng bước thực hiện việc tuân thủ 25 nguyên tắc thanh tra cơ bản của Ủy ban Basel [4,26]
Bên cạnh đó cần đẩy mạnh thu hồi nợ xấu, nợ ngoại bảng để bổ sung nguồn lực tài chính. Việc xử lý nợ xấu, nợ ngoại bảng luôn là vấn đề cực kỳ khó khăn, không thể xử lý chủ quan tùy tiện mà còn phải tuân thủ quy định pháp luật trong quá trình xử lý, vì vậy biện pháp tốt nhất là kiên quyết, mạnh dạn loại bỏ nợ xấu bằng các con đường khác nhau, ví dụ xử lý bằng tài sản của chính ngân hàng, bán nợ với các công ty con hoặc các doanh nghiệp ngoài ngân hàng như phần trên đã nêu [6].
Một vấn đề khác là các NHTM CP phải đặc biệt quan tâm quản lý rủi ro tín dụng ngay trước, trong và sau khi cho vay Muốn vậy các NHTM CP cần phải:
- Tổ chức lại mô hình theo khách hàng doanh nghiệp, tiêu dùng, đầu tư… và chuyên nghiệp hóa trong thẫm định tín dụng. Đặc biệt cần phân loại khách hàng để có chính sách và chế độ ưu đãi thích hợp.
- Hiện đại hóa quy trình thẩm định khách hàng thông qua sự hỗ trợ đặc biệt của các phần mềm phân tích, đánh giá trên cơ sở tiệm cận hệ thống đánh giá, xếp loại tín dụng của các ngân hàng hiện đại trên thế giới.
- Xây dựng hệ thống đo lường rủi ro tín dụng và thường xuyên đánh giá chất lượng tín dụng. Đảm bảo trích lập quỹ dự phòng rủi ro và kiên quyết xử lý ngay các khoản rủi ro.
- Ngoài ra để nâng cao chất lượng tài sản NHTM CP cần chú trọng đến hoạt động đầu tư. Một trong những vấn đề gần đây gây hậu quả nghiêm trọng trên thị trường tiền tệ là hoạt động đầu tư của NHTM. Những khoản đầu tư thiếu minh bạch cộng với đạo đức nghề nghiệp bị suy giảm vì lợi ích nhóm, đã dẫn đến tình trạng một số ngân hàng mất vốn, mất thanh khoản.
Do đó về lâu dài, để xây dựng một tập đoàn TC-NH vững mạnh, các NHTM CP nên hạn chế đầu tư tràn lan sang các lĩnh vực phi tài chính ngân hàng, đồng thời hạn chế chức năng ngân hàng đầu tư nếu chưa có đủ kinh nghiệm và công cụ kiểm soát chặt chẽ, vì nếu tiếp tục đầu tư có thể vừa làm giảm hiệu suất sinh lời vốn khả dụng ngân hàng, vừa có thể tăng thêm rủi ro do đầu tư dàn trải.
Một vấn đề khác là trong quản lý kết cấu tài sản có lưu ý tính toán và sắp xếp thứ tự ưu tiên sau:
+ Dự trữ sơ cấp: tính toán hợp lý dự trữ sơ cấp để vừa tuân thủ theo quy định của NHNN, vừa đáp ứng nhu cầu bất thường về tiền mặt cho khách hàng hoặc để thực hiện các khoản thanh toán cho ngân hàng khác trong việc thanh toán giữa các ngân hàng.
+ Dự trữ thứ cấp: tính toán hợp lý các loại chứng khoán có khả năng chuyển thành tiền dễ dàng như: trái phiếu, cổ phiếu... để tăng thanh khoản nhưng không gây lãng phí vốn. Hai công cụ này vừa đảm bảo khả năng sinh lời, vừa có thể hoán đổi tiền mặt khi cần thiết trên thị trường mở tuy nhiên cần đầu tư vào các danh mục có suất sinh lời cao hơn tỷ lệ chi trả cổ tức là hợp lý.
Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng tài sản có các NHTM CP trên địa bàn cần chú trọng khả năng thanh toán qua việc đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ cung cấp cho thị trường theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ truyền thống, phát triển các dịch vụ phái sinh như mục 3.3.3 đã nêu.
Thứ hai, các NHTM CP phải củng cố và nâng cao chất lượng tài sản nợ
Theo thông lệ thì các NHTM xem bên nợ của bảng tổng kết tài sản là các nghiệp vụ đương nhiên không cần phải quản lý mà chỉ cần sử dụng cho thích hợp. Tuy vậy, ngày nay các nhà ngân hàng đã bắt đầu quan tâm nhiều đến tài sản nợ và coi việc quản lý tài sản nợ như là một yếu tố để nâng cao hiệu quả quản lý, cũng như tăng nguồn bổ sung đối với khả năng thanh toán của ngân hàng.
Quản lý tài sản nợ tức là sử dụng các nghiệp vụ bên nợ của bảng tổng kết tài sản với mục đích mở rộng nguồn vốn hoạt động của NHTM, đáp ứng nhu cầu thanh toán, thanh khoản, hoặc tăng trưởng tín dụng. Như vậy, việc quản lý tài sản nợ là việc thu hút nhanh chóng các khoản tiền tệ trên thị trường để tạo nguồn cho ngân hàng. Do đó để quản lý tốt tài sản nợ các NHTM CP nên quan tâm các vấn đề sau:
- Ngoại trừ vốn tự có, NHTM CP cần tăng cường khai thác tất cả các nguồn vốn hiện có trên thị trường từ các nguồn vốn ngắn hạn tạm thời nhàn rỗi đến các nguồn trung dài hạn. Giải pháp tốt nhất là đẩy mạnh các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng để có dòng tiền ổn định, giá rẻ. Phát triển sản phẩm thu hút tiền gửi trung dài hạn để tạo ra nguồn vốn ổn định. Trong đó chú trọng nhiều kênh khác nhau như tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, ký quỹ, tiền gửi ủy thác của các tổ chức, cá nhân trong nước, kể cả nguồn vốn liên ngân hàng khi cần thiết.
- Xem xét sử dụng nhiều công cụ thu hút tiền gửi như: phát hành kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu chuyển đổi để tăng tài sản nợ.
- Quan tâm phát triển quan hệ vốn với các định chế tài chính nước ngoài, các nguồn vốn từ các quỹ tiền tệ trên thế giới và ngân hàng khu vực như ADB, IMF… để đa dạng hóa nguồn vốn, tìm nguồn vốn lớn, dài hạn để đáp ứng nhu cầu tài trợ vốn trung dài hạn cho khách hàng.
- Nâng cao chất lượng tài sản nợ cho NHTMCP còn phải tính đến việc quản lý rủi ro về lãi suất. Để quản lý rủi ro lãi suất các NHTM CP nên phát huy vai trò Ủy ban ALCO và sử dụng các công cụ giám sát như: Biểu đồ lệch kỳ hạn tái định giá (repricing gap), thời lượng của tài sản nợ và tài sản có (duration), hệ số nhạy cảm (factor sensitivity). Trong đó đặc biệt phải theo dõi diễn biến lãi suất trên thị trường trong và ngoài nước để có những điều chỉnh kịp thời [30,36].
3.2.3.5. Hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin ngân hàng
Trong thời gian qua các NHTM CP trên địa bàn rất chú trọng hiện đại hóa công nghệ ngân hàng dựa trên chiến lược phát triển, nhu cầu quản lý và mức độ tiệm cận công nghệ của mỗi ngân hàng. Tất nhiên có nhiều công nghệ khác nhau với giá cả khác nhau và khó có thể xác định đâu là “công nghệ chuẩn”, do đó hiện đại hóa công nghệ ngân hàng cần xây dựng theo lộ trình sau:
- Lựa chọn hệ thống ngân hàng lõi (core banking) phù hợp nhu cầu sử dụng hiện tại và chiến lược phát triển trong tương lai, không nên tham vọng đầu tư thật lớn nhưng không khai thác hết gây lãng phí. Giải pháp thực hiện là nhờ tư vấn để lựa chọn công nghệ phù hợp.
- Xây dựng hạ tầng công nghệ ngân hàng hoàn chỉnh từ hội sở đến tất cả các đơn vị phụ thuộc, từ ngân hàng mẹ đến các đơn vị thành viên, đảm bảo hạ tầng công nghệ vận hành ổn định, đáp ứng nhu cầu khai thác và quản trị 24/7.
- Công nghệ thông tin ngân hàng hiện đại phải đáp ứng được nhu cầu phát triển dịch vụ ngân hàng đa dạng, có thể mở rộng cho các sản phẩm dịch vụ phái sinh trong tương lai.
- Một vấn đề quan trọng nữa là tăng cường an ninh mạng và bảo mật hệ thống thông tin ngân hàng cũng như khách hàng.
- Bên cạnh đó là phải chú trọng đào tạo nhân sự cho hệ thống công nghệ thông tin ngân hàng vì đây là nhân sự rất quan trọng, quyết định sự thành công hay không thành công của công tác hiện đại hóa ngân hàng nói riêng và hoạt động NHTM CP nói chung.
Theo khảo sát thì đa số các NHTM CP trên địa bàn đều đã hoàn thành việc xây dựng core banking hiện đại có thể khai thác nhiều năm nữa, ví dụ như Sacombank sử dụng phần mềm T24 có nâng cấp thường xuyên. ACB sử dụng chương trình TCBS cũng phù hợp cho quản lý dữ liệu từ ngân hàng mẹ đến các công ty trực thuộc, vấn đề tiếp theo là xây dựng bổ sung phần mềm tương tích để khai thác dữ liệu tích hợp phục vụ công tác quản trị chung toàn tập đoàn.
3.2.3.6. Mở rộng mạng lưới và tăng cường hợp tác quốc tế
Một trong những yếu tố cơ bản để giúp NHTM CP phát triển mạnh mẽ trong những năm 2000 trở lại đây là hệ thống mạng lưới. Một số NHTM CP trên địa bàn có số điểm giao dịch lên con số hàng trăm trên cả nước, thậm chí ở nước ngoài. Tuy nhiên bao nhiêu đó vẫn chưa đủ khi còn rất nhiều vùng, miền trong nước và khu vực trong ngoài lãnh thổ chưa có sự hiện diện. Trong khi Citibank có hàng ngàn điểm giao dịch tại hơn 100 quốc gia khác nhau. Như vậy để hình thành tập đoàn TC-NH ngoài việc nâng cao năng lực tài chính và các yếu tố nêu trên, NHTM CP cần cân nhắc việc mở rộng mạng lưới.
Giải pháp về mở rộng mạng lưới là NHTM CP cần đi sâu vào hiệu quả tại từng điểm giao dịch chứ không nên mở theo chiều rộng như trước kia, theo đó:
- Đối với trong nước, NHTM CP cần có lộ trình và xác định địa bàn phù hợp, tránh tăng nhanh về số lượng nhưng chất lượng dịch vụ không cao hoặc có địa bàn nhưng không có thị trường. Một vấn đề khá nhạy cảm là nếu cần thiết, có thể sắp xếp, chuyển đổi điểm giao dịch chứ không nhất thiết duy trì gây lãng phí.
- Đối với thị trường nước ngoài cần nghiên cứu một cách khoa học và thận trọng. Tuy nhiên NHTM CP có thể phát triển mạng lưới ra nước ngoài bằng nhiều cách khác nhau:
+ Đầu tư 100% vốn dưới công ty trách nhiệm hữu hạn mà nước sở tại cho phép như Sacombank đã đầu tư sang Lào và Campuchia.
+ Liên doanh thành lập ngân hàng liên doanh như BIDV đã liên doanh thành lập ngân hàng liên doanh với Lào, Campuchia, Thái Lan.
+ Hoặc sáp nhập, mua lại một ngân hàng sở tại nhằm khai thác lợi thế sẳn có của ngân hàng đó trên thị trường.
Bên cạnh đó các NHTM CP cần tiếp tục đẩy mạnh mở rộng ngân hàng đại lý với các ngân hàng trên thế giới nhằm mở rộng khả năng thanh toán, phát triển nghiệp vụ thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối. Tuy nhiên để làm được điều này các NHTM CP cần cải thiện năng lực hoạt động và đạt sự tín nhiệm từ các đối tác, mà trong đó việc đánh giá xếp loại của một số tổ chức xếp hạng tín nhiệm lớn là cần thiết (Fitch rating, Moody’s, S & P, …) đồng thời nên lựa chọn các đơn vị kiểm toán độc lập có uy tín quốc tế kiểm toán hàng năm.
3.2.3.7.Tăng cường quản lý rủi ro hoạt động ngân hàng
Quản lý rủi ro là một vấn đề rất quan trọng mà NHTM CP trên địa bàn cần quan tâm xét theo chiều sâu lẫn chiều rộng và luôn đặt vào trạng thái cảnh báo cao[33,34].
- Quản lý rủi ro theo chiều sâu: tức là ở bất kỳ bộ phận hoạt động nào từ các giao dịch trực tiếp với khách hàng cũng như những giao dịch nội bộ luôn thiết lập quy trình, chính sách và biện pháp khắc phục, phòng ngừa rủi ro.
- Quản lý rủi ro theo chiều rộng: tức là tất cả các đơn vị trực thuộc hoặc liên kết đều xây dựng chính sách rủi ro, có sự xem xét tác động qua lại lẫn nhau để tránh rủi ro của đơn vị này lây lan sang đơn vị khác và ngược lại.
Về tổng thể, ngoại trừ các rủi ro đã nêu ở các mục 3.3.3 thì NHTM CP cần quan tâm đến các loại rủi ro sau:
- Rủi ro từ các hoạt động ngoại bảng: chủ yếu bao gồm các cam kết cho vay, bảo lãnh, các cam kết giao dịch ngoại hối như cam kết mua/ bán ngoại tệ có kỳ hạn (forward), quyền chọn mua/ bán ngoại tệ…rất dễ xảy ra rủi ro khi thị trường có những biến động bất ngờ. Để phòng ngừa và khắc phục kịp thời các NHTM CP nên xây dựng hệ thống cảnh báo khoa học và phân quyên tác nghiệp, ở mỗi cấp thừa hành bị giới hạn phê duyệt để các rủi ro nếu xảy ra cũng không gây ảnh hưởng lớn, hoặc về tổng thể mỗi cấp thừa hành bị giới hạn các trạng thái nghiệp vụ (tổng doanh số, số dư các cam kết hay giao dịch) để không hạn chế phát sinh rủi ro [15].
- Rủi ro luật pháp: NHTM CP hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ nên bên cạnh những văn bản quy phạm pháp luật chung của nhà nước đối với doanh nghiệp bình thường, NHTM CP còn bị chi phối bởi các văn bản dưới luật của NHNN tại từng thời kỳ. Nếu các yêu tố pháp luật không được coi trọng sẽ dẫn đến những rắc rối pháp lý phát sinh giữa ngân hàng với cổ đông, người lao động và khách hàng.
- Rủi ro từ thiên tai, hỏa hoạn, công nghệ thông tin, thông tin, nhân sự, tài sản, đối tác. Nói chung có rất nhiều rủi ro cần phải dự tính, mô phỏng và dự trù cách xử lý để duy trì hoạt động an toàn, hiệu quả.
- Rủi ro từ đạo đức nghề nghiệp. Rủi ro này xảy ra phát sinh từ đạo đức nghề nghiệp của nhân viên và kể cả nhà quản lý.
Sau khủng hoảng tài chính thế giới và gần đây nhất là các biến động trên thị trường tiền tệ Việt Nam cho thấy rất nhiều rủi ro xuất phát từ đạo đức nghề nghiệp, không chỉ do nhân viên làm sai mà đôi khi xuất phát từ các nhà quản lý,