2.1.2 Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tới ngành tài chính ngân hàng Việt Nam
Để xem xét tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tới nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống tài chính ngân hàng nói riêng, tác giả xin bắt đầu từ thực trạng phát triển kinh tế của Việt Nam30. Trong một vài năm trở lại đây, Việt Nam được coi là con hổ tiềm năng Châu Á- một cách gọi phóng đại của giới tài chính quốc tế, với tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt trên 7% / năm; tuy nhiên một điều dễ nhận thấy là chất lượng tăng trưởng của Việt Nam không phải là cao, kết cấu kinh tế không hợp lý, thiết bị cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, kinh tế thiếu sức cạnh tranh hạt nhân; kinh tế Việt Nam phát triển chủ yếu dựa vào vốn nước ngoài và xuất khẩu.
Do đó khi các thị trường xuất khẩu chính gặp khủng hoảng thì Việt Nam cũng gặp khó khăn và thâm hụt cán cân thương mại. Mặt khác thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam lại chỉ dựa vào các sản phẩm nguyên liệu thô, tiến hành các hoạt động gia công do vậy mà hàm lượng xuất khẩu trong các sản phẩm thực tế của Việt Nam rất thấp thì chất lượng tăng trưởng là thấp.
Một tình trạng mà các nước đang phát triển hay gặp phải là đầu tư nóng hay còn gọi là tiền nóng; tiền nóng là một loại vốn đầu tư lưu động không nhằm một mục đích cụ thể nào ngoài mục đích lợi nhuận lớn với mức rủi ro tối thiểu, nó mang tính chất đầu cơ một thời gian ngắn, khi có biến động và kiếm lợi đủ nó sẽ lưu động rất nhanh trên thị trường tài chính quốc tế - trong đó có Việt Nam.
Với tiềm năng tăng trưởng cao, thị trường tài chính nước ta là điểm đến đầy hứa hẹn cho nguồn tiền nóng31, đó là lý do vì sao thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển mạnh mẽ từ năm 2006 đến 2007. Thị trường chứng khoán phát triển kéo theo thị trường bất động sản, các ngân hàng thương mại đua nhau cho vay vốn để đầu tư, khi thị trường tài chính thế giới có những biến động bất thường, nguồn
30 Tổng hợp từ báo cáo của Vndirect, báo cáo về kinh tế Việt Nam của Tổng Cục Thống Kê 2008 và Crisis Wars in Vietnam book.
31 Nguyễn Lữ , tháng 12 năm 2008 “Chiến tranh lạm phát”, NXB Lao Động.
tiền nóng vội rút ra, bong bóng phát triển vỡ, cộng với xuất khẩu giảm, nhập siêu tăng, cơ cấu kinh tế không ổn định đã gây cho Việt Nam một loạt khó khăn trong hệ thống tài chính: tỷ giá đồng Việt Nam so với đô la Mỹ giảm 0,39%, chỉ số giá tiêu dùng CPI liên tục tăng, lạm phát đạt mức hai con số, ngân hàng nhà nước phải liên tục thay đổi lãi suất cơ bản, thị trường chứng khoán chao đảo – giá trị hầu hết các chứng khoán giảm quá nửa, tâm lý người dân hoang mang họ đổ sô đi mua vàng và Việt Nam là nước nhập khẩu vàng lớn nhất thế giới với 60 tấn v.v...
Trong một thời gian dài Việt Nam lâm vào thời kỳ lạm phát và giờ thì có nguy cơ lâm vào giảm phát. Thị trường tài chính gặp khó khăn thì một điều tất yếu là hệ thống ngân hàng thương mại – xương sống của nền kinh tế cũng sẽ trục trặc. Thể hiện cụ thể như sau:
i. Khi khủng hoảng tài chính thế giới nổ ra, lượng tiền nóng rút ra khỏi thị trường chứng khoán và bất động sản, các khoản vay của ngân hàng cho các nhà đầu tư trở thành nợ xấu, trong khi đối tượng này nắm một lượng vốn lớn của các ngân hàng thương mại khiến cho phần lớn các ngân hàng thời kỳ này thiếu vốn.
ii. Thông tin về một cuộc suy thoái toàn cầu trở thành đề tài chủ yếu của các phương tiện thông tin đại chúng cộng với một loạt tín hiệu xấu từ thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán làm cho tâm lý người dân hoang mang, làn sóng đi rút tiền mua vàng ngày một gia tăng, thắt chặt chi tiêu trong thời kỳ kinh tế khó khăn. Thêm nữa là chính sách thắt chặt tiền tệ đầu năm 2008 của ngân hàng nhà nước đã thành công trong việc làm vỡ bong bóng bất động sản và giảm tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên, nó đã làm giảm tính thanh khoản cho các ngân hàng, khiến các ngân hàng thương mại lâm vào khó khăn trong việc huy động vốn . Một cuộc chiến lãi suất nổ ra, các ngân hàng phải huy động vốn với lãi suất rất cao, đã có thời kỳ lãi suất huy động tiết kiệm lên tới 18-19% /năm32 như vậy thì chi phí huy động vốn rất cao sẽ làm giảm đáng kể tỷ suất lợi nhuận của các ngân hàng thương mại trong thời kỳ này.
32 Ngân hàng nhà nước Việt Nam, tháng 1 năm 2009,Báo cáo tổng kết hoạt động ngánh ngân hàng năm 2008
iii. Khi đã giải quyết được phần nào tình trạng lạm phát thì kinh tế Việt Nam gặp phải một vấn đề nghiêm trọng là sức sản xuất và tiêu dùng đã giảm đáng kể, mà đây lại là tín hiệu xấu cho phát triển kinh tế. Ngân hàng Nhà Nước đưa ra gói giải pháp kích cầu buộc các ngân hàng thương mại cho vay ưu đãi với một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Thời kỳ trước do thiếu vốn nên các ngân hàng đã phải huy động với lãi suất cao giờ lại cho vay với lãi suất thấp thì ngân hàng có nguy cơ sẽ lỗ nặng, nếu không cho vay thì lại bị đọng vốn mà vẫn phải trả lãi cho khách hàng gửi tiền.
iv. Khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nổ ra, không chỉ hệ thống tài chính Việt Nam gặp nhiều vướng mắc mà các ngân hàng thương mại cũng bộc lộ một số hạn chế: khả năng ứng phó với các tình huống xấu của thị trường còn yếu, cơ cấu tổ chức không chặt chẽ, nghiệp vụ huy động và sử dụng vốn chưa tốt v.v...nên trong thời kỳ khó khăn kinh tế một số ngân hàng thương mại hoạt động không hiệu quả hay quy mô nhỏ phải sáp nhập với một số ngân hàng lớn hơn và thậm chí là phá sản.
v.Trên thị trường liên ngân hàng: các ngân hàng nước ngoài tiến hành cơ cấu lại tổ chức do chịu tác động của cuộc khủng hoảng, trong khi sự liên kết giữa các ngân hàng trong nước là chưa tốt, do vậy các ngân hàng trong nước khó có thể vay vốn trên thị trường này với lãi suất thấp như trước.
Cuộc khủng hoảng tài chính đã bùng nổ và các nước đang phát triển ở châu á cũng không nằm ngoài tầm ảnh hưởng của nó trong đó có Việt Nam. Trong thời kỳ khó khăn như hiện nay, hệ thống tài chính đặc biệt là hệ thống ngân hàng nước ta đã phải vừa phải gồng mình để chống đỡ với cuộc khủng hoảng vừa phải làm sao cho theo kịp được với các chính sách của nhà nước. Trong đó một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại là nghiệp vụ huy động vốn, chính sách huy động vốn của các ngân hàng thương mại phải thực hiện sao cho đem lại hiệu quả cao nhất đó là một trong các cách giúp các ngân hàng có thể vượt qua thời kỳ khó khăn này.
2.2 Chính sách huy động vốn của Ngân hàng VCB trong thời kỳ suy thoái kinh tế
2.2.1 Giới thiệu về Ngân hàng VCB
2.2.1.1 Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của VCB
Ngày 01 tháng 04 năm 196333, NHNT chính thức được thành lập theo Quyết định số 115/CP do Hội đồng Chính phủ ban hành ngày 30 tháng 10 năm 1962 trên cơ sở tách ra từ Cục quản lý Ngoại hối trực thuộc Ngân hàng Trung ương (nay là NHNN). Theo Quyết định nói trên, NHNT đóng vai trò là ngân hàng chuyên doanh đầu tiên và duy nhất của Việt Nam tại thời điểm đó hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bao gồm cho vay tài trợ xuất nhập khẩu và các dịch vụ kinh tế đối ngoại khác (vận tải, bảo hiểm...), thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối, quản lý vốn ngoại tệ gửi tại các ngân hàng nước ngoài, làm đại lý cho Chính phủ trong các quan hệ thanh toán, vay nợ, viện trợ với các nước xã hội chủ nghĩa (cũ)...
Một sự kiện nổi bật đánh dấu mốc quan trọng cho sự phát triển của NHTMCPNT là việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng vào ngày 26 tháng 12 năm 2007 với tổng số cổ phần được phát hành 94.339.714 cổ phiếu với mệnh giá 10.000 VNĐ/ một cổ phiếu và giá đấu giá thành công thực tế là 107.512,7 VNĐ/ cổ phiếu thu hút sự chú ý của đông đảo các nhà đầu tư. Thực tế, sau đó sáu tháng ngân hàng ngoại thương Việt Nam mới chính thức trở thành NHTMCPNT vào ngày 2 tháng 6 năm 2008 theo quyết định số 138/GP-NHNN của thống đốc ngân hàng Việt Nam.
Ngân hàng được thành lập nhằm thực hiện các giao dịch ngân hàng bao gồm huy động vốn và nhận tiền gửi ngắn hạn, trung hạn và dài hạn từ các tổ chức và cá nhân; cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cới các tổ chức và cá nhân trên cơ sở tính chất và khả năng nguồn vốn của ngân hàng; thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, các dịch vụ ngân quỹ và các dịch vụ ngân hàng khác được NHNN cho phép.
33 Nguồn từ vcb.com.vn, phần giới thiệu chung và thành tựu
Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2008, ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam có trụ sở chính tại 198 Trần Quang Khải, Quận Hoàn Kiếm , Thành Phố Hà Nội cùng với một (1) sở giao dịch, sáu mươi (60) chi nhánh các tỉnh thành phố trên cả nước, một (1) trung tâm đào tạo, hai (2) công ty con trong nước, một (1) công ty con ở nước ngoài, bốn (4) công ty liên doanh, ba (3) công ty liên kết và một(1) văn phòng đại diện tại Singapore. NHTMCPNT tham gia góp vốn, liên doanh liên kết với các đơn vị trong và ngoài nước trong một số lĩnh vực kinh doanh khác nhau như kinh doanh bảo hiểm, bất động sản, quỹ đầu tư...
Với bề dày kinh nghiệm cũng như uy tín của mình, NHTMCPNT ngày càng khẳng định vị thế của mình không chỉ ở Việt Nam mà còn đủ lớn để vươn tới cạnh tranh trên trường quốc tế xứng đáng là ngân hàng tốt nhất Việt Nam với phương châm: uy tín, hiệu quả, luôn mang đến cho khách hàng sự thành đạt. Kết hợp với những thay đổi về quản trị ngân hàng hiện đại theo thông lệ quốc tế, mở rộng loại hình kinh doanh, phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, đầu tư vào công nghệ sẽ giúp Vietcombank thực hiện mục tiêu trở thành một trong những tập đoàn tài chính đa năng hàng đầu trong khu vực trong giai đoạn năm 2015 – 2020.
2.2.1.2 Khái quát hoạt động trong những năm gần đây
Kết quả hoạt động của NHTMCPNT giai đoạn năm 2005-2007, đều đạt kết quả tốt bởi tốc độ tăng lợi nhuận sau thuế bình quân đạt 13.6%, các chỉ số tài chính quan trọng khác như tổng tài sản, tổng dư nợ đều tăng ổn định, ROA và ROE cũng theo xu hướng đó. Tuy nhiên sang năm 2008 do tác động của cuộc suy thoái toàn cầu nên các chỉ số có chiều hướng đi xuống nhưng vẫn ở mức chấp nhận được vì đó là xu thế chung của toàn ngành ngân hàng. Để có cái nhìn chi tiết và cụ thể hơn tác giả xin trình bày rõ ở các phần tiếp theo.
i. Chính sách huy động vốn:
Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2008, tổng nguồn vốn của NHTMCPNT ước đạt trên 219.910 tỷ VNĐ, tăng 15,78% so với năm 2007. Như vậy đã hoàn thành vượt chỉ tiêu kế hoạch đặt ra (kế hoạch là chỉ tăng 11,6%). Nguồn vốn huy động từ hai nguồn chính là các cá nhân và các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác là
189.595 tỷ quy VNĐ tăng trên 14.160 tỷ quy VNĐ, tương đương với tăng 8% so với năm 2007, chiếm xấp xỉ 40% tổng khối lượng vốn huy động của toàn thị trường Hà Nội và 30% tổng lượng vốn huy động của toàn thị trường thành Phố Hồ Chí Minh - hai thị trường lớn nhất nước ta trong lĩnh vực huy động vốn, trong đó lượng vốn huy động bằng VNĐ từ cá nhân và tổ chức tín dụng chiếm 53% và bằng ngoại tệ chiếm 47%, tuy mức tăng vốn huy động không cao nhưng NHTMCPNT là ngân hàng có lượng vốn huy động vẫn đứng thứ hai trong các ngân hàng hàng đầu Việt Nam chỉ sau ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV) là 201.000 tỷ quy VNĐ theo sau là ngân hàng Vietinbank là 174.600 tỷ quy VNĐ.
Tuy nhiên mức tăng 8% này là rất thấp so với năm 2007, năm 2007 tổng nguồn vốn huy động của NHTMCPNT đạt 175.434,407 tỷ quy VNĐ tăng 26% so với năm 2006, nguyên nhân là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khiến cho thời kỳ giữa và cuối năm 2008, thị trường tiền gửi rất hỗn loạn. Người dân mất lòng tin vào hệ thống tài chính nên họ có xu hướng đi rút tiền tiết kiệm đi mua ngoại tệ, vàng và họ không muốn đem đến ngân hàng để gửi nữa và NHTMCPNT cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng của xu hướng này. Mặc dù vậy những kết quả mà ngân hàng đã đạt được trong công tác huy động vốn vẫn khẳng định được vị trí của mình trong thời buổi kinh tế khó khăn như hiện nay.
Biểu đồ 2.4: Diễn biến tổng nguồn vốn của NHTMCPNT giai đoạn năm 2005-2008
Biểu Đồ Tổng Nguồn Vốn
Đơn Vị : Tỷ Đồng
250000
200000
150000
100000
50000
0
197408,036
219910,208
136720,611
167127,832
2005 2006 2007 2008
Năm
(Nguồn báo cáo thường niên của NHTMCPNT)
ii. Chính sách sử dụng vốn
Huy động vốn đã là một việc không đơn giản tuy nhiên việc sử dụng vốn sao cho đem lại lợi ích cao không những phải đảm bảo an toàn cho lượng vốn đa huy động mà còn phải làm cho những đồng vốn đó đem lại lợi nhuận luôn là một bài toán khó cho các ngân hàng thương mại. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2008 tổng dư nợ của NHTMCPNT là 166.250 tỷ quy VNĐ tăng 11,7% so với năm 2007 chỉ đứng sau Vietinbank có tổng dư nợ là 180.300 tỷ quy VNĐ. Hiện NHTMCPNT là ngân hàng cho vay với lãi suất là 13,5% đây là mức cho vay thấp nhất tính đến thời điểm cuối năm 2008.
Đối tượng đầu tư chủ yếu của NHTMCPNT là các doanh nghiệp trong một số ngành nghề sản xuất mũi nhọn như xây dựng, sản xuất và phân phối điện, sản xuất chế biến, nông lâm thủy sản, công nghiệp khai thác mỏ, giao thông v.v... hầu hết là các doanh nghiệp nhà nước chiếm tới 67,15% tổng dư nợ của ngân hàng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn tiến hành mở rộng đầu tư vào một số doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và đặc biệt là các công ty chứng khoán, đây là một chiến lược mới của ngân hàng hứa hẹn đem lại nhiều lợi nhuận.
iii. Hoạt động thanh toán quốc tế và dịch vụ thẻ
Với truyền thồng là ngân hàng chủ lực của Việt Nam trong lĩnh vực cung cấp các dịch vụ đối ngoại, NHTMCPNT đã đóng góp tích cực cho hoạt động thanh toán trong và ngoài nước như LC, nhờ thu, bảo lãnh, bao thanh toán cũng như các dịch vụ tài trợ thương mại, cấp tín dụng ngắn hạn, trung hạn và đầu tư dự án cho rất nhiều doanh nghiệp từ doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài v.v..... Hiện nay NHTMCPNT là ngân hàng duy nhất tại Việt Nam đạt tỷ lệ trên 95% điện Swift được xử lý hoàn toàn tự động theo tiêu chuẩn của Mỹ.
Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu qua VCB năm 2006 đạt gần 22,8 tỉ USD, chiếm thị phần tới 27,4% so với kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước và luôn duy trì tốc độ tăng trung bình 18,31%/năm, đến năm 2008 tổng doanh thu từ hoạt động thanh toán quốc tế là 437,607 tỷ VNĐ chiếm 12,1% tổng doanh thu hoạt động của ngân hàng và NHTMCPNT vẫn là đầu tàu trong lĩnh vực thanh toán quốc tế trong các năm tiếp theo.
iv. Kinh doanh chứng khoán
Vào đầu năm 2006 thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển mạnh mẽ, nhằm theo kịp với xu hướng trên NHTMCPNT bắt đầu tiến hành hoạt động kinh doanh chứng khoán. Hạng mục các chứng khoán kinh doanh của NHTMCPNT bao gồm chứng khoán chính phủ (chiếm 65,8% tổng lượng chứng khoán mua vào sẵn sàng để bán) và chứng khoán từ các tổ chức tín dụng trong nước phát hành chiếm 34,2%. Năm 2008 tổng lượng chứng khoán mua vào của NHTMCPNT đạt 31.493,620 tỷ VNĐ giảm 11,5% so với năm 2007 trong khi năm 2007 con số này đạt mức tăng 35,5%. Trong đó lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh chứng khoán năm 2008 là lỗ 25,389 tỷ VNĐ trong khi lãi trong năm 2007 là 260,715 tỷ VNĐ và năm 2006 là 100,776 tỷ VNĐ.
Những số liệu trên đã phản ánh chính xác phần nào sự biến động của thị trường chứng khoán Việt Nam, vào cuối năm 2006 và đầu năm 2007 thị trường chứng khoán phát triển mạnh mẽ sau đó do sự phát triển quá nóng của nó cũng như tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới khiến hầu hết giá trị các chứng khoán giảm quá nửa, các công ty chứng khoán từ làm ăn lãi lớn trở thành lỗ nặng. Đó NHTMCPNT cần thiết lập các công cụ phòng tránh rủi ro phù hợp và hiệu quả để có thể giảm thiểu tối đa rủi ro từ thị trường chứng khoán, nơi mà đã gây ra những ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng.
v. Góp vốn đầu tư dài hạn
Trong những năm gần đây, NHTMCPNT đã tiến hành đầu tư kinh doanh vào rất nhiều các doanh nghiệp thuộc nhiều ngành nghề kinh tế khác nhau, nhằm mục đích thực hiện chiến lược đưa ngân hàng trở thành một tập đoàn tài chính đa năng hàng đầu trong khu vực đến năm 2015. Các doanh nghiệp mà NHTMCPNT tiến hành góp vốn đầu tư liên doanh là các công ty con (công ty chứng khoán Vietcombank, công ty địa ốc Vietcombank,công ty thuê tài chính Vietcombank, công ty tài chính Việt Nam-Hongkong), công ty liên doanh, công ty liên kết và một số các tổ chức tín dụng khác. Tổng giá trị đầu tư là trên 3670 tỷ VNĐ tăng 42,4% so với năm 2007, thu nhập từ hoạt động này năm 2008 là 596,594 tỷ VNĐ tăng
58,71% so với năm 2007 chiếm 16,6% tổng doanh thu hoạt động của ngân hàng năm 2008.
Hiện nay, NHTMCPNT có mạng lưới các công ty con lớn nhất trong các ngân hàng thương mại Việt Nam, điều này tạo điệu kiện thuận lợi cho ngân hàng thực hiện được mục tiêu chiến lược của mình đến năm 2015.
v. Kinh doanh ngoại tệ
Năm 2008 lãi thuần từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ đạt 952,43 tỷ quy VNĐ tăng 62,8% so với năm 2007 là 345,35 tỷ quy VNĐ và năm 2006 đạt 273,84 tỷ quy VNĐ. Tốc độ tăng của lãi thuần từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ năm 2008 cao hơn rất nhiều so với tốc độ tăng của năm 2007 bằng 26% do năm 2008 là một năm đầy biến động của thị trường ngoại hối. Do diễn biến phức tạp khó lường của thị trường tiền tệ thị trường ngoại hối rất sôi động các giao dịch mua và bán, tận dụng những thế mạnh của mình NHTMCPNT đã thu được một lượng lợi nhuận chiếm trung bình 8% trên tổng lợi nhuận của ngân hàng.
Nguồn mua vào ngoại tệ từ các tổ chức cá nhân và tổ chức kinh tế bao gồm cả trong và ngoài nước, bởi từ năm 2007 nhà nước cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tự do mang ngoại tệ vào hoặc ra khỏi Việt Nam. Doanh số bán ra của NHTMCPNT chủ yếu ở khu vực khách hàng là các tổ chức kinh tế phục vụ xuất nhập khẩu, bên cạnh đó là phục vụ nhu cầu của các khách hàng cá nhân như du lịch, du học, công tác, lao động xuất khẩu v.v.....
iv. Phát triển sản phẩm mới
Dựa trên nền tảng hiện đại, NHTMCPNT đã không ngừng phát triển các sản phẩm dịch vụ mới nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng. Trong những năm gần đây, một loạt các dịch vụ mới ra đời đem lại sự khác biệt rõ nét cho ngân hàng như dịch vụ ngân hàng trực tuyến, một loạt các loại thẻ thông dụng nhất trên thế giới được phát hành, nâng cấp các dịch vụ Vietcombank-Cyber Bill Payment (V-CBP) cho phép các tài khoản sử dụng Internet hoặc thẻ Connect 24 có thể thực hiện miễn phí các giao dịch chuyển tiền, thanh toán tiền điện thoại, điện nước, phí bảo hiểm v.v.... Ngoài các dịch vụ trên NHTMCPNT liên tục đưa thêm một loạt các sản phẩm phái sinh khác mang lại lợi ích cho khách hàng. Có thể nói
NHTMCPNT luôn giữ vai trò đầu tàu, đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu của khách hàng.
2.2.2 Thực trạng huy động vốn tại Ngân Hàng VCB
Sau khi gia nhập WTO thị trường tài chính Việt Nam đã mở cửa rất nhiều bằng chứng là giờ đây các ngân hàng 100% vốn nước ngoài đã được hoạt động tại nước ta, với tiềm lực và kinh nghiệm sẵn có trên trường quốc tế, họ sẽ là lực lượng cạnh tranh chủ yếu với các ngân hàng Việt Nam. Thêm nữa trước đây khi còn là ngân hàng nhà nước NHTMCPNT được hưởng rất nhiều các ưu đãi từ phía nhà nước và chính phủ, giờ đây sau khi cổ phần hóa do gặp không ít khó khăn NHTMCPNT cần thiết lập cho mình những chiến lược phát triển quan trọng cho từng hoạt động kinh doanh của mình, trong đó đặc biệt chú trong đến thúc đẩy công tác huy động vốn phát triển.
2.2.2.1 Các loại vốn trong tổng nguồn vốn huy động
i. Căn cứ vào loại tiền
- Vốn nội tệ
Định hướng lâu dài của NHTMCPNT là ngày càng chú trọng hơn đến thu hút vốn nội tệ, nếu như trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2004 ngân hàng có xu hướng cơ cấu vốn là tỷ trọng vốn ngoại tệ chiếm khá cao trong tổng nguồn vốn huy động, bởi nó phụ thuộc vào đặc điểm thị trường cũng như đặc điểm kinh tế lúc đó; thì giai đoạn những năm gần đây đặc biệt là từ năm 2006 đến năm 2008 ngân hàng đã và đang đạt được mục tiêu là nâng cao tỷ trọng vốn nội tệ trong tổng nguồn vốn, bởi tỷ lệ VNĐ/ngoại tệ đã được cân bằng qua các năm.
Nguồn vốn huy động của NHTMCPNT tăng trên cả 3 thị trường , thị trường liên ngân hàng, tổ chức kinh tế và dân cư, đặc biệt là từ tiền gửi của tổ chức kinh tế và dân cư. Cụ thể, vốn nội tệ từ 57.422,65 tỷ VNĐ năm 2005, lên 76.878,82 tỷ VNĐ năm 2006, lên 95.259,93 tỷ VNĐ và 116.552,4 tỷ năm 2008. Tốc độ tăng trung bình qua các năm ước đạt 26,71%, nhờ vậy mà ngân hàng đã đạt được mục tiêu của mình là tăng tỷ trọng vốn nội tệ theo biểu đồ 2.5.
Biểu đồ 2.5: Vốn nội tệ của NHTMCPNT giai đoạn 2005-2008
Biểu đồ vốn nội tệ
.93
Đơn vị: tỷ VNĐ
120000
100000
80000
6000057422
40000
20000
0
2.4
76878
.65
11
.82
95259
655
2005 2006 2007 2008
Năm
( Nguồn: Báo cáo các hoạt động của NHTMCPNT 2005-2008)
Diễn biến trên là do NHTMCPNT đã kết hợp đồng bộ và hiệu quả các loạt giải pháp như chủ động làm tốt công tác khách hàng, tăng cường một bước trong công tác điều hành, quản trị vốn, lãi suất, rủi ro, thanh khoản và áp dụng một số sản phẩm, dịch vụ huy động mới dựa trên nền tảng công nghệ tiên tiến của thế giới. Đồng thời do tác động của yếu tố khách quan, khoảng thời gian cuối năm 2007 đầu năm 2008, Việt Nam phải đối mặt với tình trạng khó khăn của nền kinh tế: tỷ lệ lạm phát đạt mức hai con số khiến VNĐ mất giá so với các các đồng tiền khác: ngân hàng nhà nước thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ giảm lượng tiền lưu thông; do vậy NHTMCPNT hạ lãi suất huy động ngoại tệ xuống tăng lãi suất huy động tiền đồng nhằm thực thi chính sách của NHNN.
Tuy nhiên, chưa chắc lãi suất càng cao càng thu hút được nhiều vốn; khi lãi suất cao thì độ rủi ro của khách hàng cũng càng cao. Khách hàng không chỉ gửi tiền vào một tổ chức tín dụng nếu đơn thuần chỉ vì lãi suất cao mà còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác. Tận dụng uy tín của mình trên thị trường tài chính, NHTMCPNT đã đưa ra một chính sách lãi suất ổn định (không có tình trạng thay đổi liên tục để theo kịp với lãi suất thị trường) và có độ an toàn cao đảm bảo lợi ích cho cả ngân hàng cũng như khách hàng, trong thời kỳ bất ổn như vậy khách hàng sẽ rất an tâm khi gửi tiền vào NHTMCPNT, vì thế mà lượng tiền huy động VNĐ tăng đều qua
các năm. Hệ thống thẻ thanh toán với mạng lưới rộng khắp kích thích khách hàng mở tài khoản, tiến hành giao dịch với ngân hàng nhiều hơn.
- Vốn ngoại tệ
Ngân hàng TMCPNT luôn chiếm thị phần lớn nhất về huy động vốn ngoại tệ và đầu tư vốn USD trên thị trường tiền gửi quốc tế. Tuy nhiên một mặt chịu ảnh hưởng mạnh mẽ trực tiếp hay gián tiếp từ những biến động lãi suất của FED, tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, ngân hàng Nhà Nước yêu cầu giảm lãi suất huy động USD v.v... mặt khác chịu sự cạnh tranh từ các ngân hàng trong và ngoài nước khiến cho nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ giảm qua các năm.
Bảng 2.6: Vốn ngoại tệ của NHTMCPNT giai đoạn 2005-2008
2005 | 2006 | 2007 | 2008 | |
Vốn USD(triệu USD) | 4956.12 | 5640.56 | 6196.75 | 6459.86 |
Chênh lệch tuyệt đối( triệu USD) | 0 | 684.44 | 556.19 | 263.1 |
Chênh lệch tương đối(%) giữa các năm | 0 | 13.81 | 9.86 | 4.24 |
Có thể bạn quan tâm!
- Chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương trong thời kỳ suy thoái kinh tế - 1
- Chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương trong thời kỳ suy thoái kinh tế - 2
- Đặc Điểm Của Chính Sách Huy Động Vốn Trong Thời Kỳ Suy Thoái Kinh Tế
- Nguồn Huy Động Vốn Phân Chia Theo Đối Tượng Của Vcb Giai Đoạn 2005-2008
- Chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương trong thời kỳ suy thoái kinh tế - 6
- Chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương trong thời kỳ suy thoái kinh tế - 7
Xem toàn bộ 65 trang tài liệu này.
( Nguồn: Báo cáo các hoạt động của NHTMCPNT 2005-2008)
Nhìn vào bảng số liệu 2.6 ta thấy nguồn vốn của NHTMCPNT đều có xu hướng tăng, nhưng tốc độ tăng giảm dần và giảm một cách đột biến đặc biệt từ năm 2007 đến năm 2008, tốc độ tăng này thấp hơn rất nhiều so với tốc độ tăng của nguồn vốn nội tệ như đã phân tích ở trên. Nguyên nhân của xu hướng này, tỷ giá USD so với các đồng tiền khác trên thế giới thay đổi liên tục chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, FED tiến hành cắt giảm lãi suất nhiều lần khiến cho lãi suất USD trong nước cũng giảm theo, mọi người không còn muốn mạo hiểm bằng việc giữ ngoại tệ đặc biệt là USD; mặt khác ngân hàng Nhà Nước Việt Nam yêu cầu các ngân hàng phải hạ thấp lãi suất huy động ngoại tệ thấp hơn nhiều so với lãi suất huy động VNĐ nhằm thực hiện chính sách kiềm chế lạm phát. Do vậy, việc huy động
ngoại tệ không còn sôi động như thời kỳ vài năm trước nên lượng ngoại tệ huy động tăng không đáng kể.
Bảng 2.7: Cơ cấu huy động vốn theo loại tiền VNĐ và ngoại tệ giai đoạn 2005-2008
2005 | 2006 | 2007 | 2008 | |
VNĐ(%) | 42 | 46 | 49 | 53 |
Ngoại tệ (%) | 58 | 54 | 51 | 47 |
( Nguồn : Báo cáo các hoạt động của NHTMCPNT 2005-2008)
NHTMCPNT là ngân hàng có lượng vốn huy động bằng ngoại tệ lớn nhất trong các ngân hàng thương mại nước ta nhưng với những chính sách huy động hợp lý, tỷ trọng VNĐ/ngoại tệ đã thu hẹp dần thậm chí năm 2008 tỷ trọng của VNĐ còn cao hơn 6% so với vốn ngoại tệ. Qua đó khẳng định NHTMCPNT đã thành công trong việc chuyển dịch cơ cấu huy động theo hướng tăng tỷ trọng vốn tiền đồng như chiến lược tái cơ cấu mà ngân hàng đã đề ra theo bảng số liệu 2.7.
ii. Căn cứ vào thời hạn của vốn
Giống như các ngân hàng thương mại khác, NHTMCPNT cũng có chiến lược thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn trung và dài hạn, đây là hai nguồn vốn có tính ổn định cao, có thể sử dụng để đầu tư các dự án trung và dài hạn, đem lại nguồn thu nhập chính cho ngân hàng. Tuy nhiên tình trạng thiếu hai nguồn vốn này vẫn đang là thách thức với các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và với NHTMCPNT nói riêng trong bối cảnh kinh tế suy giảm, lạm phát tăng cao và nhu cầu đầu tư lâu dài kích thích sản xuất ngày càng tăng.
Ta sẽ xem xét sự thay đổi cơ cấu vốn ngắn hạn và vốn trung dài hạn của NHTMCPNT qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.9: Diễn biến nguồn vốn huy động theo kỳ hạn VNĐ giai đoạn 2006-2008
Đơn vị: Tỷ VNĐ
2006 | 2007 | 2008 | |
Tổng nguồn vốn VNĐ | 76878.82 | 95259.93 | 116552.41 |
Vốn HĐ trung dài hạn | 22361.76 | 34441.24 | 28885.83 |
Tăng (%) | 54.01 | -16.13 | |
Tỷ trọng trên tổng NV(%) | 29.08 | 36.15 | 24.78 |
37230.92 | 43595.66 | 65795.05 | |
Tăng (%) | 48.42 | 17.09 | 50.92 |
Tỷ trọng trên tổng NV(%) | 45.76 | 56.45 |
(Nguồn: Theo tài liệu thống kê của tài liệu thống kê phòng vốn NHTMCPNT)
Bảng 2.10: Diễn biến nguồn vốn huy động theo kỳ hạn USD giai đoạn 2006-2008
Đơn vị: triệu USD
2006 | 2007 | 2008 | |
Tổng nguồn vốn USD | 5640.56 | 6196.75 | 6459.86 |
Vốn HĐ trung dài hạn | 1948.29 | 2815.81 | 2220.50 |
Tăng (%) | 44.52 | -21.14 | |
Tỷ trọng trên tổng NV(%) | 34.53 | 45.44 | 34.37 |
Vốn HĐ ngắn hạn | 1920.86 | 1988.46 | 2863.99 |
Tăng (%) | 34.04 | 3.51 | 44.03 |
Tỷ trọng trên tổng NV(%) | 32.08 | 44.33 |
(Nguồn: Theo tài liệu thống kê của tài liệu thống kê phòng vốn NHTMCPNT)
Qua hai bảng số liệu 2.9 và 2.10, xu hướng của cả vốn VNĐ và USD đều có những diễn biến bất thường dù chỉ qua 3 năm tài chính. Tổng nguồn vốn VNĐ trung dài hạn tăng 54,01% từ năm 2006 sang năm 2007 theo như xu hướng tăng của giai đoạn trước đó nhưng lại giảm tới 16,13% từ năm 2007 sang 2008. Tuy nhiên, nguồn vốn VNĐ ngắn hạn lại vẫn đi theo chiều hướng tăng qua các năm từ 17,09% năm 2007 lên 50,92% năm 2008. Vốn USD ngắn hạn tăng tới 44,03% năm 2008, trong khi chỉ tăng 3,51% năm 2007, nguồn trung dài hạn lại giảm 21,14% năm 2008 trong khi tăng 44,52% năm 2007.
Giải thích cho tình trạng bất thường trên, năm 2008 là một năm đầy sóng gió đối với hầu hết các ngân hàng thương mại bao gồm cả NHTMCPNT. Trong thời gian qua, với chính sách kiềm chế lạm phát của chính phủ đã tác động lên thị trường tài chính của Việt Nam.
Mặt khác, có thể thấy là cơ cấu giữa nguồn vồn VNĐ trung dài hạn và ngắn hạn có sự mất cân đối nghiêng về vốn ngắn hạn, kết hợp với gói hỗ trợ lãi suất trong ngắn hạn của chính phủ thì sự mất cân đối này sẽ đáp ứng được nhu cầu của một lượng lớn khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần vốn để sản xuất kích
thích tiêu dùng. Nhưng trong về lâu về dài sự mât cân đối là không hợp lý vì luôn có những khách hàng muốn vay vốn dài hạn để đầu tư kinh doanh lâu dài.
Vấn đề đặt ra cho ban lãnh đạo NHTMCPNT là cần tiến hành một số giải pháp để tăng tỷ trọng vốn trung dài hạn, giải quyết triệt để tình trạng mất cân đối dài hạn, nhằm đáp ứng nhu cầu dài hạn của khách hàng.
Một giải pháp tình thế là lấy một lượng dư thừa vốn ngắn hạn cho vay dài hạn. Để thực hiện được phương pháp này ngân hàng phải đưa ra một lãi suất hợp lý cho cả các khách hàng vay dài hạn và ngắn hạn. Vì ưu điểm của phương pháp này là đáp ứng được phần nào đòi hỏi của khách hàng, sử dụng lượng vốn ngắn hạn dư thừa để sinh lời. Song rủi ro là rất lớn nếu các khách hàng có vốn ngắn hạn ồ ạt đi rút tiền mà khoản cho vay vẫn chưa đến hạn trả. Do vậy ngân hàng cần hết sức cân nhắc khi áp dụng phương pháp này để đảm bảo mục tiêu lợi nhuận và rủi ro thanh khoản.
iii. Căn cứ vào đối tượng huy động vốn
Gồm có vốn từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế (TCKT), từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác (vay từ thị trường liên ngân hàng).
Trong đó nguồn vốn từ dân cư luôn đóng vai trò quan trọng nhất trong cơ cấu huy động vốn của hầu hết các ngân hàng thương mại, bởi tính ổn định, bền vững tương đối của nguồn vốn này. Bên cạnh đó vốn từ các tổ chức kinh tế cũng chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng nguồn vốn nhằm thực hiện các hoạt động thanh toán bù trừ. Nguồn vốn này có chi phí huy động thấp nên NHTMCPNT không ngừng áp dụng chính sách khách hàng, chính sách lãi suất linh hoạt, hấp dẫn nhằm thu hút thêm khách hàng loại này. Ngoài ra vốn từ thị trường liên ngân hàng là một nguồn vốn đặc trưng có vai trò sống còn trong một số trường hợp cấp bách của các ngân hàng thương mại.