Chú Trọng Tổ Chức Nghiên Cứu Cơ Bản, Toàn Diện Và Có Hệ Thống Về Nhà Nước Pháp Quyền, Xây Dựng Cơ Sở Lý Luận Và Thực Tiễn Về Nhà Nước Pháp


nhân dân, vì nhân dân và chủ động hội nhập quốc tế. Nghiên cứu quá trình xây dựng NNPQ ở Việt Nam cho thấy, cùng với việc đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn về xây dựng NNPQ, Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam đã có quyết tâm chính trị mạnh mẽ và đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để thực hiện việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Dưới đây, xin nêu một cách khái quát nhất một số kinh nghiệm chủ yếu qua sự nhận thức và cảm nhận của nghiên cứu sinh về xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

2.6.1. Chú trọng tổ chức nghiên cứu cơ bản, toàn diện và có hệ thống về Nhà nước pháp quyền, xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Ở Việt Nam hoạt động nghiên cứu khoa học về NNPQ được triển khai rất sớm, từ những năm 80 của thế kỷ trước. Kết quả của những nghiên cứu đó đã cung cấp nhiều thông tin, tri thức và kinh nghiệm, góp phần nâng cao nhận thức lý luận về NNPQ nói chung và về NNPQ XHCN Việt Nam nói riêng. Đặc biệt là từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994), Đảng cộng sản Việt Nam xác định rõ chủ trương xây dựng NNPQ Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, những hoạt động nghiên cứu cơ bản về NNPQ được mở rộng về quy mô và nâng cao về cấp độ. Trong 5 năm (2001-2005), một chương trình khoa học cấp Nhà nước - Chương trình KX.04: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân”, gồm 9 đề tài cấp Nhà nước được đặt ra để nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và có hệ thống về NNPQ.

Kết quả nghiên cứu của Chương trình KX.04 đã bước đầu xây dựng một hệ thống lý thuyết về Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân phù hợp với các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và truyền thống của Việt Nam. Cung cấp các luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc hình thành các quan điểm chỉ đạo về quá trình xây dựng và củng cố chế độ pháp quyền ở Việt Nam, góp phần thống nhất nhận thức xã hội về pháp quyền, về dân chủ trong quá trình phát triển đất nước.

Trên cơ sở làm rõ những giá trị phổ biến và những giá trị đặc thù, Chương trình đã xác định những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ


nghĩa Việt Nam bao gồm: 1) Là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; 2) Quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất trên cơ sở có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; 3) Vị trí tối thượng của Hiến pháp và luật trong đời sống xã hội. Mọi tổ chức và hoạt động của nhà nước thực hiện trên cơ sở Hiến pháp và luật; 4) Trách nhiệm qua lại giữa nhà nước - công dân, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; 5) Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa gắn liền với xã hội công dân; 6) Thực hiện nghiêm chỉnh và tận tâm các cam kết quốc tế; 7) Nhà nước pháp quyền do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Kết quả nghiên cứu của Chương trình KX.04 đã cung cấp các cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng các định hướng, giải pháp cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, chính quyền địa phương; cải cách hệ thống pháp luật, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền. Đã làm sáng tỏ mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản lãnh đạo và cầm quyền với Nhà nước thực hiện chức năng quán lý xã hội theo sự ủy quyền của nhân dân. Làm rõ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền trên cả ba phương diện: chính trị, tư tưởng, tổ chức đối với từng bộ phận của Nhà nước cũng như của địa phương. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đi đôi với việc tăng cường vị trí, vai trò của Quốc hội; khẳng định việc phát huy đầy đủ vị trí, vai trò của Quốc hội chính là nhân tố tiền đề, có tính quyết định bảo đảm xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.

Chương trình đã phân tích và làm rõ phạm trù định chế xã hội, bao gồm: các định chế xã hội chính trị và các định chế xã hội dân sự; phân tích và rút ra những vấn đề lý luận từ thực trạng quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân với các định chế xã hội ở Việt Nam; khái quát định chế xã hội là “tổng hoà quan hệ giữa hệ thống tổ chức thiết chế xã hội và hệ thống quy phạm về phương thức tổ chức, hoạt động của cá nhân, cộng đồng”. Chương trình cũng đã xác định những đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân đối với đội ngũ cán bộ, công chức và thể chế quản lý cán bộ, công chức; xây dựng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 180 trang tài liệu này.


luận cứ khoa học và thực tiễn để xác định các tiêu chí phân định công chức, viên chức và cán bộ, công chức cơ sở; trên cơ sở đó tạo lập thể chế quản lý thích hợp đối với từng loại đối tượng cán bộ, công chức…

Xây dựng nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân - 12

Đáng chú ý là Chương trình KX.04 được triển khai đồng thời với các chương trình khoa học công nghệ khác, trong đó có các chương trình nghiên cứu về các vấn đề có mối quan hệ và tác động trực tiếp đến xây dựng NNPQ như: Chương trình KX.01: “Kinh tế thị trường định hướng XHCN”; Chương trình KX.03: “Xây dựng Đảng trong điều kiện đổi mới”; Chương trình KX.05: “ Phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”; Chương trình KX.10: “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”…

Kế thừa và phát triển những nghiên cứu cơ bản theo các chương trình, đề tài cấp nhà nước, các hướng nghiên cứu cụ thể, chuyên sâu về từng nội dung cụ thể của Nhà nước pháp quyền Việt Nam cũng được coi trọng, không ngừng mở rộng về phạm vi và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Việc chú trọng tổ chức nghiên cứu cơ bản, toàn diện và có hệ thống về Nhà nước pháp quyền nói chung và Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói riêng đó có ý nghĩa hết sức quan trọng, bảo đảm cho công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc để triển khai thẳng lợi. Đây là một kinh nghiệm mà Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào cần nghiên cứu, tiếp thu để xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân, vì dân.

2.6.2. Không ngừng phát triển đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước là một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Sự lãnh đạo đó thể hiện ở nhiều bình diện khác nhau, trong đó đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và dân chủ XHCN ở Việt Nam là cơ sở


đặc biệt quan trọng, có tính xuất phát điểm, quyết định thắng lợi của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân.

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng và không ngừng phát triển đường lối, quan điểm chỉ đạo quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Từ năm 1991, khi thuật ngữ Nhà nước pháp quyền chính thức được sử dụng trong văn kiện của Đảng CSVN, thì trong các văn kiện quan trọng của Đảng đều có nội dung về xây dựng Nhà nước pháp quyền. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng CSVN xác định “Xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Tại Đại hội X, Đảng CSVN khẳng định tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đến Đại hội XI, vấn đề này được hoàn thiện trong Cương lĩnh Đảng CSVN bổ sung, phát triển năm 2011 và được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013. Cụ thể là, bổ sung thuật ngữ “giám sát” vào nguyên tắc phối hợp và phân công quyền lực: Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cương lĩnh 2011 và Hiến pháp năm 2013 khẳng định Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện. Dân chủ xã hội XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự pháp triển của sự phát triển đất nước và bảo vệ tổ quốc; xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam luôn được phát triển hoàn thiện, đặt trong mối quan hệ với những chủ trương, quan điểm về xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; với bảo đảm quyền con người, quyền công dân; với chủ trương xã hội hoá, phát huy vai trò của các tổ chức xã hội và chủ động hội nhập quốc tế…

Đảng NDCM Lào là lực lượng lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội Lào, đường lối, chính sách, quan điểm chỉ đạo của Đảng NDCM Lào luôn có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc và hội nhập quốc tế của đất nước. Kinh nghiệm của Việt Nam về phát triển đường lối, quan điểm của Đảng về


xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và dân chủ XHCN ở Việt Nam có giá trị tham khảo cao cho Đảng và Nhà nước Lào trong việc xây dựng và phát triển lý luận và chỉ đạo thực tiễn xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân, vì dân.

2.6.3. Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước

Trên cơ sở nhận thức rõ hơn bản chất dân chủ và pháp quyền của Nhà nước của dân, do dân, vì dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; quan hệ thống nhất giữa Trung ương và địa phương; về chức năng của Nhà nước pháp quyền nói chung và chức năng của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp nói riêng; về mối quan hệ giữa cơ quan công quyền với công dân trong Nhà nước pháp quyền là mối quan hệ bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, quan hệ đồng trách nhiệm; về quyền con người, quyền công dân được Nhà nước tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm; về đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật, trong quản lý nhà nước và xã hội, trong các nghị quyết của Đảng CSVN đã đề ra chủ trương, quan điểm chỉ đạo về đổi mới mạnh mẽ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và hệ thống cơ quan tư pháp. Chủ trương và các quan điểm đó đã được thể chế hóa trong Hiến pháp 1992, Hiến pháp năm 2013, trong hệ thống pháp luật, nhất là hệ thống pháp luật về tổ chức và triển khai thực hiện một cách mạnh mẽ và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Có thể khái quát những điểm lớn như sau:

- Đối với Quốc hội: Vị trí, vai trò của Quốc hội Việt Nam đã được xác định rõ hơn. Quốc hội đã đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và hoạt động, thực sự trở thành cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quản lực nhà nước cao nhất, thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.

- Đối với Chủ tịch nước: Với vị trí, vai trò là người đứng đầu nhà nước, quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được xác định rõ hơn; Chủ tịch nước thực hiện đầy đủ chức năng nguyên thủ quốc gia, thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và trong quan hệ với các nước và các tổ chức quốc tế.


- Đối với Chính phủ, với vị trí, vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp và là cơ quan chấp hành của Quốc hội, Chính phủ đã đổi mới mạnh mẽ tổ chức và họat động xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả. Đặc biệt, cùng với việc đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và phương thức họat động, chính phủ và hệ thống cơ quan hành chính nhà nước nước nói chung đã tiến hành quyết liệt công cuộc cải cách hành chính, trong đó cải cách thủ tục hành chính được coi là khâu đột phá, thực hiện công khai, minh bạch và đề cao trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước và cán bộ công chức nhà nước. Mối quan hệ giữa Chính phủ với Quốc hội và các cơ quan tư pháp cũng như mối quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước, công chức, viên chức với nhân dân đã có sự thay cơ bản, phù hợp với yêu cầu và nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền.

- Đối với các cơ quan tư pháp, nhận thức rõ tính chất, vị trí, vai trò của các cơ quan tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Bộ Chính trị đã ban hành hai nghị quyết quan trọng, đó là: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trên cơ sở của hai Nghị quyết này, công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam được tiến hành liên tục, mạnh mẽ và đã đạt được những kết quả to lớn. Về mặt tổ chức, các cơ quan tư pháp Việt Nam được xác định gồm có Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, hệ thống cơ quan điều tra và cơ quan thi hành án. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tư pháp được xác định cụ thể, đầy đủ hơn. Hệ thống tổ chức của các cơ quan tư pháp được đổi mới căn bản: Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân đã được tổ chức theo 4 cấp (trước đây là 3 cấp); hệ thống tổ chức của cơ quan điều tra và thi hành án được đổi mới, củng cố và ngày càng hoàn thiện; nguyên tắc thẩm phán độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật ngày càng được tôn trọng và thực hiện đầy đủ hơn; nguyên tranh tụng đã được áp dụng một cách rộng rãi, cùng nhiều nguyên tắc khác.

Hệ thống cơ quan tư pháp được củng cố, phát triển theo định hướng xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá


nhân, đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân, vì dân.

Việc xây dựng NNPQ ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đang ở giai đoạn đầu, những kinh nghiệm về đổi mới tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước ở Việt Nam là những gợi ý, những bài học rất thiết thực mà Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào có thể tham khảo, học tập trong quá trình củng cố, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của bộ máy nhà nước ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.

2.6.4. Tăng cường công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật

Xây dựng và hoàn thiện pháp luật là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền. Đối với Việt Nam (và cũng là đối với Lào), quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân lại càng quan trọng nhưng cũng hết sức khó khăn, phức tạp. Hệ thống pháp luật trước thời kỳ đổi mới được xây dựng theo quan điểm pháp lý cũ, phản ánh và điều chỉnh các quan hệ xã hội trong cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu bao cấp, vì vậy để xây dựng được một hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, thì cần thiết phải đổi mới tư duy pháp lý và phải tiến hành các giải pháp đồng bộ, mạnh mẽ và sáng tạo.

Nhận thức rõ tầm quan trọng, yêu cầu và những khó khăn, thách thức đó, Đảng và Nhà nước đã chủ động, kịp thởi đề ra những chủ trương, quan điểm và có sự đầu tư mạnh mẽ cho việc đổi mới tư duy pháp lý trên cả ba phương diện: nhận thức, tư tưởng và phương pháp tư duy, đồng thời thực hiện nhiều giải pháp mạnh mẽ để đổi mới hệ thống pháp luật, loại bỏ những quy định đã lỗi thời không còn phù hợp, bổ sung những quy định mới và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Đặc biệt, ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48- NQ/TW “Về Chiến lược về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”.

Với mục tiêu: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ


nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”, Nghị quyết đã xác định rõ các quan điểm chỉ đạo, các định hướng và các giải pháp lớn về xây dựng, hoàn thiện pháp luật.

Trên cơ sở các quan điểm, định hướng đó, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam được triển khải thực hiện một cách toàn diện, đồng bộ và đã đạt được những kết quả to lớn: Hoạt động xây dựng pháp luật có tiến bộ vượt bậc cả về lượng và chất lượng. Các văn bản pháp luật được ban hành ngày càng nhiều, kịp thời và bao quát rộng khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó các văn bản luật và pháp lệnh chiếm tỷ lệ ngày càng cao. Chất lượng của hệ thống pháp luật được nâng lên, đáp ứng cơ bản các tiêu chí của hệ thống pháp luật về tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai và minh bạch. Các văn bản pháp luật đã thể hiện tư duy lập pháp mới nhằm đảm bảo sự phát triển cân đối, đồng bộ giữa thể chế về kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, bảo vệ quyền con người phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững của đất nước. Quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã có nhiều đổi mới quan trọng theo hướng minh bạch, chặt chẽ, dân chủ, huy động tối đa trí tuệ của toàn xã hội vào hoạt động xây dựng pháp luật, bảo đảm tính khả thi của văn bản thông qua việc đánh giá tác động kinh tế - xã hội của văn bản ngay từ khi đề xuất sáng kiến và cả trong quá trình soạn thảo; có cơ chế thu hút sự tham gia của các nhà khoa học, của nhân dân, của đối tượng chịu sự tác động của văn bản vào quá trình xây dựng văn bản; xác định rõ thẩm quyền của các cơ quan trong quá trình soạn thảo, thẩm định, thẩm tra... Công tác tổ chức thi hành pháp luật được tăng cường và có chuyển biến rõ nét. Hệ thống thông tin và phổ biến, giáo dục pháp luật, tăng cường khả năng tiếp cận của nhân dân đối với hệ thống pháp luật được coi là nhiệm vụ thường xuyên và liên tục của Chính phủ. Hoạt động này đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân. Công tác đào tạo nguồn nhân lực pháp luật được đẩy mạnh.

Có thể nói, Việt Nam là một trong những nước rất thành công trong quá trình

đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng nhu cầu của NNPQ, KTTT và

Xem tất cả 180 trang.

Ngày đăng: 13/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí