Kết Cấu Tỷ Trọng Của Các Khoản Thu Nhập Trên Tổng Thu Nhập Từ Hđkd Của Nhntvn 2004-2006


XNK của cả nước với mức tăng bình quân 26%/năm.


Bảng 2.4: Hoạt động thanh toán quốc tế của NHNTVN 2004 - 2006


2004

2005


2006



(tỷ

Giá trị

USD)

Thị phầna

Giá trị (tỷ USD)

Thị phầna

Giá trị (tỷ USD)

Thị phầna

DSTT XK

6

,968

26,3%

9,375

28,9%

12,7

32%

DSTT NK

9

,414

29,5%

11,583

31,3%

10,1

22,8%

Tốc độ tăngb

31,6%

27,8%


9%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.

Xây dựng ngân hàng ngoại thương Việt Nam thành tập đoàn tài chính ngân hàng đa năng trong khu vực Châu Á - 10

DSTT: Doanh số thanh toán; XK: Xuất khẩu; NK: Nhập khẩua Thị phần so với kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu của cả nước b Tốc độ tăng trưởng DSTT xuất nhập khẩu so với năm trước Nguồn: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam


Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn thanh toán chủ yếu qua NHNTVN là dầu thô, gạo, thủy sản trong khi các mặt hàng nhập khẩu mà NHNTVN chiếm thị phần thanh toán lớn là xăng dầu, sắt thép, phân bón, máy móc thiết bị.

Thanh toán liên ngân hàng:


Hoạt động thanh toán liên ngân hàng đã có sự thay đổi quan trọng với việc NHNTVN thực sự trở thành trung tâm xử lý giao dịch VCB-MONEY của toàn hệ thống, cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử cho các đối tượng khách hàng là các định chế tài chính và các doanh nghiệp (kênh VCB-MONEY chiếm 97% giao dịch). Với việc thường xuyên nâng cao chất lượng dịch vụ, gia tăng các tiện ích cho khách hàng sử dụng như dịch vụ báo có trực tuyến, trả lương với số lượng giao dịch không hạn chế, hệ thống bảo mật xác thực -OTP, cho đến nay đã có 120 định chế tài chính và 175 tổ chức kinh tế sử dụng dịch vụ thanh toán qua kênh này. Trong năm 2006 đã thực hiện 928.000 giao dịch với trị giá lên tới 332.750 tỷ đồng và 21 tỷ USD.

Hoạt động kinh doanh vốn:


Kinh doanh ngoại tệ:


Trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ NHNTVN vẫn giữ được vai trò chủ đạo, là nguồn cung ứng ngoại tệ lớn cho hoạt động xuất nhập khẩu trong cả nước. Giai đoạn 2003 - 2006, hoạt động kinh doanh ngoại hối của NHNTVN có nhiều thuận lợi: kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, cung tiền tăng, nguồn kiều hối dồi dào, tỷ giá USD/VND ít biến động. Doanh số mua bán ngoại tệ trong nước đã tăng từ xấp xỉ 10 tỷ USD năm 2003 lên hơn 16 tỷ USD năm 2005. Tổng doanh số mua bán ngoại tệ của NHNTVN trong năm 2006 đạt 19,0 tỷ USD, tăng 15% so với năm 2005. Doanh số mua vào đạt 9,5 tỷ USD, tăng 1,25 tỷ USD, trong đó mua từ TCKT và cá nhân đạt 8,5 tỷ USD, mua từ NHNN đạt 1,0 tỷ USD. Doanh số ngoại tệ bán ra đạt 9,5 tỷ USD và hầu hết là bán cho TCKT và cá nhân, trong đó bán cho doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu chiếm 24,8%. Doanh số mua và doanh số bán ngoại tệ trong nước khá cân bằng trong giai đoạn này, đạt mức tăng trung bình 30%/năm. Lượng ngoại tệ bán ra chủ yếu phục vụ nhu cầu nhập khẩu của tổ chức kinh tế (97 - 99%). Đặc biệt lượng ngoại tệ bán ra phục vụ nhập khẩu mặt hàng chiến lược xăng dầu tăng từ 1,3 tỷ USD năm 2003 lên 2,3 tỷ USD năm 2006. Doanh số mua bán ngoại tệ với nước ngoài tăng từ xấp xỉ 3 tỷ USD năm 2003 lên 7,6 tỷ USD năm 2005, tăng trung bình 75%/năm, nhanh hơn so với tốc độ tăng trung bình của doanh số mua bán ngoại tệ trong nước cùng kỳ: Trong năm 2006, tổng doanh số mua bán ngoại tệ với nước ngoài đạt 11.175 triệu USD. Trong đó doanh số mua đạt 5.645 triệu USD, tăng 52%; doanh số bán là 5.530 triệu USD, tăng 49% so với năm trước. Mua bán ngoại tệ với nước ngoài năm 2006 đạt mức tăng trưởng cao do trong năm NHNTVN đẩy mạnh thực hiện nhiều sản phẩm mới, và chủ động hơn trong tình hình nguồn ngoại tệ mua được từ tổ chức và cá nhân trong nước khá ổn định

Kinh doanh trái phiếu:


Hoạt động kinh doanh trái phiếu của NHNTVN trên thị trường sơ cấp và thứ cấp trong năm 2006 có những chuyển biến tích cực. Khối lượng trái phiếu NHNTVN tham gia bảo lãnh phát hành và đấu thầu tăng trưởng vượt bậc ở mức 5.200 tỷ đồng, tăng 320% so năm 2005. Nghiệp vụ này giúp NHNTVN đảm bảo mục đích


dự trữ thanh khoản cũng như nguồn cho hoạt động kinh doanh trái phiếu thứ cấp. Trên thị trường thứ cấp, doanh số giao dịch trái phiếu đạt 10.000 tỷ đồng. Đặc biệt, để đón đầu xu hướng phát triển của thị trường, trong năm NHNTVN cũng đã mở rộng kinh doanh thêm nhiều loại trái phiếu mới như trái phiếu Chính phủ, đô thị chưa niêm yết và trái phiếu doanh nghiệp (EVN và Vinashin). Để đáp ứng nhu cầu khách hàng, bên cạnh các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ truyền thống, NHNTVN đã phát triển thêm một số sản phẩm phái sinh như quyền chọn, tương lai, kinh doanh chứng chỉ quỹ đầu tư, hợp đồng lãi suất kỳ hạn. Quy trình giao dịch cụ thể cho các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ cũng được hoàn thiện và triển khai trong hệ thống. Công tác tự động hoá tiếp tục được quan tâm trong quá trình tác nghiệp với việc đưa thêm các chương trình kinh doanh tỷ giá và quản lý ngoại hối.

Phát triển công nghệ:


Trong năm 2006, NHNTVN tiếp tục triển khai Dự án Hiện đại hóa ngân hàng và Hệ thống thanh toán. Các hệ thống được đánh giá là hoạt động ổn định, đáp ứng khá tốt yêu cầu của khách hàng. Tháng 10/2005, NHNTVN đã nghiệm thu thành công giai đoạn II của dự án. Đây là nền tảng công nghệ quan trọng để NHNTVN phát triển các ứng dụng khác và tạo điều kiện để triển khai các dịch vụ thương mại điện tử sau này. Nằm trong Dự án Hiện đại hóa ngân hàng và Hệ thống thanh toán, hệ thống ứng dụng sản phẩm chuyển tiền đi/đến nước ngoài theo mô hình xử lý tập trung tại trung ương cũng đã được triển khai toàn diện. Chương trình này là một hệ thống xử lý các giao dịch được tự động hóa giúp chuyển tiền nhanh nhất, giảm thiểu chi phí, đáp ứng yêu cầu khách hàng tốt nhất.

Cũng trong khuôn khổ Dự án Hỗ trợ kỹ thuật do Ngân hàng Thế giới tài trợ, NHNTVN đã xây dựng xong Đề án “Chuyển đổi mô hình tổ chức và nâng cao năng lực điều hành”, NHNTVN đã triển khai thí điểm mô hình tổ chức mới về nghiệp vụ tín dụng tại 03 chi nhánh: Hà Nội, Đà Nẵng và Hồ Chí Minh. Đi đôi với việc triển khai mô hình tổ chức tín dụng mới, một phương thức quản lý tín dụng mới được


thiết lập trên nguyên tắc tách biệt ba chức năng trong hoạt động tín dụng là kinh doanh, quản lý rủi ro và tác nghiệp, nhằm tăng cường tính hiệu quả của từng khâu do có sự chuyên sâu, đồng thời đảm bảo sự giám sát lẫn nhau giữa các khâu thông qua việc tuân thủ quy trình. NHNTVN cũng phát triển dịch vụ ngân hàng trên nền tảng công nghệ như dịch vụ Internet Banking với 30.000 khách hàng sử dụng , bước đầu đưa vào ứng dụng Thương mại điện tử, dịch vụ SMS Banking với 5.000 khách hàng,…


Hoạt động kinh doanh thẻ:


Hiện VCB đang chiếm 50% thị phần thẻ, hướng đến Hội nhập quốc tế, VCB cũng là ngân hàng tiên phong tại Việt Nam trong lĩnh vực đa dạng hoá các dịch vụ thẻ. Tháng 4-2002, với việc triển khai hệ thống ngân hàng bán lẻ, VCB đã thành công trong việc phát triển thẻ ghi nợ nội địa Connect 24 và hệ thống ATM. Hiện nay, VCB đã phát hành được hơn 1,5 triệu thẻ thanh toán, trong đó có hơn 70.000 thẻ tín dụng quốc tế (Visa, MasterCard và American Express). VCB đã mở rộng quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực với các tổ chức thẻ quốc tế, đặc biệt là với MasterCard để đưa ra thị trường những sản phẩm và dịch vụ thẻ mới tiện ích. VCB cũng đã phối hợp với MTV Châu Á và Tổ chức thanh toán thẻ quốc tế MasterCard đưa ra thị trường thẻ thanh toán MTV từ ngày 26-4-2006 với độ an toàn cao do được cấp phép điện tử với 100% giao dịch và đảm bảo an ninh bằng cơ sở hạ tầng công nghệ quốc tế. Đây là sản phẩm thẻ đầu tiên của dòng thẻ thanh toán MasterCard Unemboss liên kết đầu tiên tại Việt Nam và trên thế giới.

Trong những năm qua, dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ của NHNTVN đã phát triển với tốc độ rất nhanh và thực sự trở thành một dịch vụ ngân hàng hiện đại mang tính nền tảng và là mũi nhọn cho chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ, mở ra một hướng mới cho việc huy động vốn, giúp giảm lãi suất đầu vào cho Ngân hàng đồng thời đặt nền móng cho việc phát triển giao dịch không dùng tiền mặt. NHNTVN đã và đang khẳng định vị trí hàng đầu trong hoạt động kinh doanh thẻ,


phát triển các sản phẩm dịch vụ mới và tiện ích gia tăng cho khách hàng trên nền tảng công nghệ hiện đại.

Trong năm 2006 NHNTVN đã phát hành 20.907 thẻ quốc tế, đưa tổng số thẻ quốc tế đang lưu hành đạt 72.500 thẻ với tổng doanh số sử dụng thẻ đạt 1.012,6 tỷ đồng, tăng 36,5% so với năm 2005. Trong đó, thẻ ghi nợ quốc tế - NHNTVN_ MTV sau 9 tháng phát hành (từ tháng 03/2006) đến nay đã đạt 11.576 thẻ. Tổng số thẻ Connect 24 lên tới 1,5 triệu thẻ, riêng năm 2006 NHNTVN phát hành 580.000 thẻ, tăng 63% so với năm 2005.

Doanh số thanh toán thẻ quốc tế năm 2006 đạt 6.200 tỷ quy đồng (386,3 triệu USD), tăng 22,8% so với năm 2005. Doanh số sử dụng thẻ Connect 24 đạt mức rất cao: rút tiền mặt gần 2.000 tỷ đồng/tháng (tăng 64%), chuyển khoản hơn 335 tỷ đồng/tháng (tăng 67,5%) và thực hiện các giao dịch chi tiêu hàng hoá dịch vụ tại Cơ sở chấp nhận thẻ hơn 1,5 tỷ đồng/tháng (tăng 50%). Sự tăng trưởng vượt bậc về doanh số sử dụng dịch vụ tại ATM năm 2006 (tăng 73,3%) là kết quả trực tiếp từ việc mở rộng mạng lưới ATM (705 máy), đẩy mạnh triển khai các dịch vụ thanh toán billing với các đối tác cung cấp dịch vụ là bảo hiểm, điện lực, bưu điện, các công ty viễn thông di động.

Bảng 2.5: Hoạt động kinh doanh thẻ của NHNTVN 2004-2006


Chỉ tiêu

Đơn vị tính

2004

2005

2006

Số thẻ đang lưu hành

Thẻ tín dụng quốc tế

thẻ

36.275

51.600

72.500

Thẻ Connect 24

thẻ

480.000

940.000

1.500.000

Thanh toán thẻ

DSTT thẻ quốc tế

triệu USD

226

315

386,3

DSTT thẻ Connect 24

triệu đồng

8.818.354

18.574.653

28.038.000

Nguồn: Ngân hàng ngoại thương


Đồng thời, năm 2006 NHNTVN đã phát hành được một số loại thẻ mới như: NHNTVN MTV MasterCard, NHNTVN SG24 và phát triển dịch vụ thương mại


điện tử V-CPB. Năm 2006 đã đánh dấu một bước tiến của NHNTVN trong lĩnh vực liên kết với các đối tác trong và ngoài nước với một loạt các chương trình hợp tác với Visa, MasterCard, American Express và Vietnam Airline, China Union Pay (CUP).


Quan hệ ngân hàng đại lý:


Hiện tại NHNTVN có quan hệ đại lý với khoảng 1200 ngân hàng và chi nhánh ngân hàng tại 85 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó NHNTVN luôn đặt quan hệ đại lý với các ngân hàng hàng đầu tại từng quốc gia và vùng lãnh thổ đó. Tại Việt Nam, NHNTVN có quan hệ với tất cả các ngân hàng hoạt động tại Việt Nam, bao gồm 5 NHTMNN, 36 NHTMCP, 6 ngân hàng liên doanh và 35 chi nhánh NHNNg. Thông qua mạng lưới chi nhánh, các công ty con trực thuộc, các VPĐD rộng khắp trong và ngoài nước cùng với hệ thống ngân hàng đại lý hùng hậu tại 85 quốc gia trên toàn cầu, NHNTVN có khả năng cung cấp những dịch vụ ngân hàng tài chính hiện đại với chất lượng cao và thời gian nhanh nhất tới mọi đối tượng khách hàng là các cơ quan Chính phủ, các định chế tài chính, các doanh nghiệp và các khách hàng cá nhân trong và ngoài nước.

Hoạt động kinh doanh của các công ty con.


Công ty Chứng khoán: Trong năm 2006, đặc biệt là cuối năm, thị trường chứng khoán tại Việt Nam thực sự bùng nổ, có mức tăng trưởng vượt bậc tạo nên sự phát triển mạnh mẽ về số lượng cũng như quy mô hoạt động của các công ty chứng khoán. Hoạt động sôi động ngay từ đầu năm trong môi trường thuận lợi, Công ty Chứng khoán NHNTVN đã thực hiện vượt xa hầu hết các chỉ tiêu kinh doanh và đạt được mức lợi nhuận cao nhất từ trước tới nay. Tổng số tài khoản giao dịch chứng khoán mới mở trong năm 2006 đạt 17.888 tài khoản, tăng gấp 8,4 lần so với năm 2005 và cao gấp gần 6 lần so với chỉ tiêu kế hoạch. Phí môi giới thu được tăng mạnh - đạt 28 tỷ VND so với mức kế hoạch 7,4 tỷ. Thực hiện 29 hợp đồng tư vấn niêm yết - đăng ký giao dịch, cao gần gấp 2 so với số chỉ tiêu (15). Tổng doanh thu bảo lãnh phát hành trái phiếu


Chính phủ và trái phiếu chính quyền địa phương đạt 10,4 tỷ, tăng gấp 2 so với kế hoạch. Doanh thu do tự doanh chứng khoán đạt 130 tỷ VND. Lợi nhuận trước thuế đạt 113 tỷ đồng, tăng 57% so với kế hoạch được duyệt.

Để phù hợp với các quy định mới của Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Chứng khoán 2006 Công ty đã chỉnh lý và hoàn thiện các văn bản dự thảo Điều lệ Tổ chức và hoạt động và Quy chế Tài chính để trình HĐQT NHNTVN ký ban hành trong năm 2007. Nhằm tăng cường quản lý rủi ro, Công ty đã thành lập Phòng quản trị rủi ro để thực hiện hàng ngày việc giám sát tuân thủ và quản trị rủi ro đối với các hoạt động nghiệp vụ của Công ty.

Công ty Cho thuê Tài chính: Hoạt động của Công ty Cho thuê tài chính NHNTVN vẫn duy trì được sự phát triển khá tốt trong năm 2006. Dư nợ cho thuê tài chính đạt 1.100 tỷ đồng, tăng 22,4% so với cuối năm 2005. Tổng số nợ xấu là 25 tỷ đồng, chỉ chiếm 2,3% tổng dư nợ của Công ty. Nhóm đa dạng hoá nguồn vốn đầu vào, tiến tới từng bước nâng dần tỷ trọng tự cân đối nguồn vốn, trong năm 2006 Công ty bắt đầu triển khai nghiệp vụ nhận tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức trong nước. Lợi nhuận trước thuế của Công ty đạt 16,5 tỷ đồng, tăng 20,4% so với năm 2005.

Công ty Quản lý nợ và Khai thác tài sản: Trong năm 2006, thị trường bất động sản vẫn tiếp tục trì trệ, gây nhiều khó khăn cho Công ty trong việc thực hiện xử lý tài sản đảm bảo thu hồi nợ. Tuy nhiên Công ty đã tích cực đẩy mạnh tốc độ xử lý các tài sản đã được uỷ thác nhằm hoàn thành ở mức cao nhất nhiệm vụ được giao, sẵn sàng cho việc chuyển đổi mô hình tổ chức và hoạt động. Công ty đã xử lý dứt điểm được 10 trong số 11 tài sản còn tồn tại ở thời điểm đầu năm 2006 với tổng số tiền thu được đạt 140,5 tỷ đồng. Lợi nhuận trước thuế của Công ty đạt gần 2,3 tỷ đồng. Như vậy, đến nay Công ty cơ bản đã hoàn thành nhiệm vụ xử lý tài sản bảo đảm, góp phần thực hiện thành công Đề án xử lý nợ tồn đọng của NHNTVN.


Công ty tài chính VINAFICO (HONGKONG): Tổng nguồn vốn của Công ty đạt 400 triệu HKD, tăng 7% so với năm trước. Số dư tiền gửi tại các ngân hàng là 355,5 triệu HKD. Các nghiệp vụ thanh toán XNK và chuyển tiền trong năm 2006 đạt tốc độ tăng trưởng khá, trung bình khoảng 10%, với doanh thu phí tăng 51% so với năm trước. Lợi nhuận trước thuế đạt 3,9 triệu HKD, tăng gần gấp 3 lần so với năm 2005.

Hoạt động liên doanh góp vốn: Tính đến 31/12/2006 NHNTVN đã góp vốn vào 5 liên doanh, 7 TCTD và 10 TCKT với tổng mức đầu tư đạt 923 tỷ quy VND, tăng 219 tỷ so với cuối năm 2005. Nhìn chung hoạt động đầu tư của NHNTVN trong năm 2006 đã thu được những kết quả đáng kể với các khoản lợi nhuận từ TCTD và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh khả quan của các liên doanh và các TCKT. Cổ tức bình quân cao hơn khá nhiều so với lãi suất cho vay và lãi suất trên thị trường tiền tệ, trái phiếu. Giá trị thị trường bình quân đạt gấp 5 lần vốn đầu tư.


Thu nhập Lãi Dịch vụ Kinh doanh ngoại hối Kinh doanh chứng khoán Khác

80.56%

100.0%

77.20%

80.0%

49.6%

60.0%


40.0%

14.7%

7.3% 18.2%

10.64%

5.19%

10.2%

10.40%

4.50%

0.40%

7.50%

0.24%

3.36%

20.0%


0.0%

2004

2005

2006


Biểu đồ 2.5 : Kết cấu tỷ trọng của các khoản thu nhập trên tổng thu nhập từ HĐKD của NHNTVN 2004-2006

Nguồn : Ngân hàng Ngoại thương

Xem tất cả 126 trang.

Ngày đăng: 18/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí